[Fshare] [Tài liệu] Stephen Hawking's Grand Design 2012 1080p BluRay x264 | D-ZON3 | DON | VietHD ~ Siêu Phác

Thảo luận trong 'Phim tài liệu - Documentaries' bắt đầu bởi v0minh, 22/12/15.

  1. v0minh

    v0minh Well-Known Member

    Tham gia ngày:
    23/12/14
    Bài viết:
    19,418
    Đã được cảm ơn:
    213,205
    Giới tính:
    Nam
    Nghề nghiệp:
    Blogger
    Nơi ở:
    Hải Phòng
    [TABLE=align: center][TR][TD=bgcolor: Crimson, align:center]

    Stephen Hawking's Grand Design 2012 1080p BluRay x264-WaLMaRT




    [/TD][/TR][TR][TD=align: center, bgcolor: #FFFFCC]
    Siêu Phác Thảo Của Stephen Hawking: Thượng Đế Tạo Ra Vũ Trụ?

    {Phụ đề tiếng Việt}

    (Benedict Cumberbatch, Stephen Hawking, Funke Adeleke)


    [​IMG] Ratings: 8.5/10 from 635 users


    [/TD][/TR][/TABLE]

    [​IMG]

    Thông tin phim. Click HERE:
    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Nội dung phim[/TD][/TR]
    [TR][TD=bgcolor: #FFFFCC]
    Stephen Hawking - lý thuyết gia lừng danh về vật lý của Anh đã tuyên bố trong cuốn sách mới của ông là Thượng Đế không sáng tạo ra vũ trụ mà “Sự Nổ Lớn” (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật lý. “Bởi vì có một định luật chẳng hạn như sức hút khiến vũ trụ có thể và sẽ tự sáng tạo từ chân không (nothing)." Ông đã viết trong cuốn sách như sau “Sự sáng tạo do bởi chính nó đã là lý do tại sao có nhiều thứ chứ không phải chỉ có một thứ, tại sao vũ trụ hiện hữu và tại sao chúng ta có mặt,” Và ông viết tiếp, “Không nhất thiết phải van nài Thượng Để làm chuyện kinh khủng như thế (Big Bang) để cho vũ trụ chuyển động.”

    https://vi.wikipedia.org/wiki/Stephen_Hawking

    Stephen Hawking - một thiên huyền thoại
    Nhà bác học huyền thoại Stephen Hawking không chỉ được kính phục vì trí tuệ uyên bác mà còn nhờ nghị lực phi thường, vượt qua bệnh tật để vươn lên thành nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới.Bộ óc lớn trong thể xác teo nhỏ

    Chỉ còn da bọc xương vì bệnh teo cơ, toàn thân tê liệt, bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, cổ ngoẹo về một phía và chỉ cử động được hai ngón tay của bàn tay trái – đó là hình ảnh một trong những nhà thiên văn lớn nhất thời đại Stephen Hawking. Phương tiện thông tin duy nhất là chiếc máy tổng hợp giọng nói do một người bạn thiết kế riêng cho ông, hoạt động bằng cách gõ nhẹ lên các con chữ của chiếc máy tính dính liền vào xe. Mà đối với ông, cái động tác hết sức đơn giản này cũng vô cùng khó khăn. Trong tư thế bất động ấy, bộ não với năng lực sáng tạo mãnh liệt của Hawking không ngừng phiêu lưu trong những giải ngân hà có khoảng cách hàng triệu, hàng tỷ năm ánh sáng.

    Từ năm 21 tuổi, chàng sinh viên Đại học Oxford đã có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh ALS, làm huỷ hoại tuỷ sống và phần não có chức năng điều khiển hoạt động của cơ bắp, loại bệnh hiểm nghèo chưa tìm ra cách chữa mà khi phát hiện chính bác sĩ đã kết luận anh không thể sống quá 2 năm rưỡi nữa. Thế những dường như Trời đã để anh sống để thực hiện nhiệm vụ giải đáp một câu hỏi ngàn đời của nhân loại: Chúng ta từ đâu tới? Thế giới bắt đầu ra sao ? Vũ trụ do đâu mà có ? … Thời gian có “chảy” ngược không? Vì thế, tuy sống trong tình trạng như trên, năm nay đã 71 tuổi, trí tuệ của Hawking vẫn sáng suốt phi thường.

    Ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, chàng sinh viên nhỏ con và gầy gò luôn luôn làm cho các thầy lúng túng này đã bị các “lỗ đen” mê hoặc. Đó là các vật thể kỳ lạ, tạo ra do sự tàn lụi của các vì sao. Dùng những phương trình tương đối của Einstein, anh đã chứng minh về mặt toán học là tại trái tim của những lỗ đen, là những “cái kỳ quặc” - những điểm không kích thước, khối lượng rất lớn và do đó sức hút cực mạnh, đến mức không một vật thể nào, kể cả ánh sáng có thể thoát được ra ngoài.

    [​IMG]

    Vượt qua đau đớn thể xác do bệnh tật hành hạ, Hawking vẫn hoàn thành được luận án tiến sĩ về Vũ trụ học mà ông từng đeo đuổi. Bất kể sự tàn tật, trưòng Đại học danh tiếng nhất nước Anh là Cambridge vẫn bổ nhiệm ông làm Trưởng khoa Toán – Lý, một vị trí mà trước đây chính nhà bác học Newton đã từng giữ. Trong quá trình hoạt động khoa học của mình, Hawking đã vượt qua Thuyết tương đối, Cơ học lượng tử, Lý thuyết về Vụ nổ lớn Big-bang (tiếng nổ khai sinh ra vũ trụ) và đã trở thành một “siêu sao” trong bầu trời khoa học, được coi là một trong những nhà vật lý lớn nhất hiện nay kể từ khi Einstein qua đời. Cái tên Stephen Hawking trở nên đồng nghĩa với “lỗ đen”. Toàn bộ những công trình của ông được đánh giá là “chiếc chìa khoá mở cửa vào Vũ trụ”.

    Ngoài hoạt động nghiên cứu Hawking còn viết sách. Cuốn “Lược sử thời gian” của ông viết năm 1988 được liệt vào những cuốn sách bán chạy nhất thế giới với tổng số bản in lên tới 10 triệu bản kể cả những bản được dịch ra 40 thứ tiếng, trong đó có bản dịch ra tiếng Việt. Nghĩa là chỉ đứng sau Kinh thánh và một số vở kịch của Shakespeare. “Bộ sưu tầm” những giải thưởng khoa học, học vị “Tiến sĩ danh dự” và các danh hiệu khoa học ông được trao tặng có lẽ phong phú nhất hành tinh.

    Luôn muốn phản biện mình

    Stephen Hawking đang giảng bài Có thể nói tài năng của Hawking không nở rộ được nhiều đến thế nếu thiếu vai trò của vợ ông, bà Jane Wilde, một cử nhân ngôn ngữ học. Biết rõ căn bệnh hiểm nghèo có thể dẫn đến cái chết bất cứ lúc nào, bà Jane vẫn quyết định lấy ông, mang lại cho ông niềm hy vọng và ý chí để tiếp tục nghiên cứu trong khi sức khoẻ ngày càng tồi tệ. Đến khi Hawking bị liệt hoàn toàn, bà bỏ hết công việc, tình nguyện làm “vú nuôi” để chăm sóc ông 24/24 giờ mỗi ngày.

    [​IMG]

    Thế nhưng sau 25 năm chung sống, họ đã phải chia tay. Bà Jane vốn là một tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo nên cảm thấy bị chủ nghĩa vô thần của chồng xúc phạm. Và bà không chịu nổi nữa khi tại một Hội nghị khoa học ở Vatican, trước mặt Đức giáo hoàng, Hawking tuyên bố : “Vũ trụ có thể hoàn toàn tự duy trì, không có bờ bến, không có khởi đầu và kết thúc. Và nếu thật sự như vậy thì làm gì còn chỗ cho Đấng Sáng tạo”.

    Sau khi ly dị vợ, Hawking tái hôn với người nữ điều dưỡng đã chăm sóc ông, vốn là vợ cũ của người bạn đã chế ra chiếc máy tổng hợp giọng nói cho ông.

    Hawking không bao giờ bảo thủ, khăng khăng bảo vệ những thuyết mình đã đưa ra và đã được không ít người thừa nhận. Đưa ra lý thuyết về lỗ đen những trong suốt 30 năm qua, ông luôn luôn trăn trở, kiểm chứng nó qua thực nghiệm, nhất là khi Kính thiên văn vũ trụ Hubble của NASA (Cục Không gian và Du hành vũ trụ Hoa Kỳ) được phóng lên bầu trời liên tục gửi về Trái đất những kết quả đo đạc mới nhất. Nỗi băn khoăn, dày vó ông đến mất ăn mất ngủ: Điều mình khẳng định có đúng không và đúng đến mức độ nào ?

    Với tinh thần khoa học nghiêm túc, ông đã từng thú nhận một sai lầm của mình năm 1985 và đến tháng 7/2004, một lần nữa giới khoa học lại chấn động - ông lại thừa nhận thuyết của mình còn thiếu thuyết phục, khi cho rằng các xoáy đen nuốt chửng vật chất và hình thành khi các ngôi sao bị huỷ diệt, và vật chất đang biến mất qua lỗ đen tới một vũ trụ mới.

    [​IMG]
    Ông công khai thừa nhận mình đã không đúng “dù rất tiếc đã làm những nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng thất vọng” (vì nhiều cuốn tiểu thuyết viễn tưởng đã sử dụng ý tưởng này của ông) và đưa ra một hướng tiếp cận khác “tuy không thú vị bằng”, và cho rằng “Lỗ đen không phá huỷ mọi thứ mà nó hút vào, trái lại, nó phát ra vật chất và năng lược dưói dạng bị biến đổi”. Việc bàn luận đúng sai thuộc về các nhà bác học lớn vì chuyên môn quá sâu. Chúng ta chỉ thấy ở đây một tinh thần khoa học trung thực, sẵn sàng phủ nhận chính mình để đi đến những gì mình cảm thấy gần với chân lý khách quan hơn.

    Cách đây 12 năm, năm 1997, Stephen Hawking có sang Việt Nam trong một chuyến đi du lịch bình thường, thăm cô con gái nuôi người Việt lúc đó đang học tại trường dành cho trẻ khuyết tật ở làng trẻ em SOS (Hà Nội). Ông dừng lại ba ngày, chơi với cô con gái nuôi, đi trên chiếc xe lăn có người đẩy, đưa con đi mua sắm trên khu phố cổ… Ông dừng lại 3 ngày rồi ra đi, hầu như không ai được biết.

    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------
    Giải mã sự sống của Stephen Hawking - người mắc chứng 'hóa đá'
    Ông hoàng vật lý thế giới Stephen Hawking vẫn kiên cường chống chọi bệnh tật suốt hơn 50 năm qua, dù được bác sĩ chẩn đoán là chỉ có thể sống thêm hai năm sau khi phát hiện bệnh xơ cứng teo cơ (ALS).




    [​IMG]
    "Ông hoàng vật lý" Stephen Hawking. Ảnh: Guardian
    Ngày 20/4/2009, Stephen Hawking rơi vào tình trạng nguy kịch vì căn bệnh nan y ALS. Người phát ngôn Đại học Cambrigde, Anh, thông báo rằng giáo sư Hawking "phải nhập viện và đang rất yếu". Các tờ báo bắt đầu đăng tải những bài tóm lược vinh danh cuộc đời của ông hoàng vật lý lý thuyết như cáo phó sớm. Nhiều chuyên gia lo ngại thời gian của ông sắp hết. Thế nhưng, căn bệnh không thể khuất phục được Hawking.

    Ở tuổi 73, cùng với hội chứng vô phương cứu chữa, Stephen được cho là không thể tiếp tục thuyết hình thành vũ trụ, nghiên cứu về mối lo ngại củatrí tuệ nhân tạo... Vượt qua tất cả những điều đó, Stephen Hawking đã làm nên kỳ tích sống sót với căn bệnh ALS, khiến không ít chuyên gia bất ngờ.

    Hội chứng xơ cứng teo cơ (ALS) là căn bệnh khiến các tế bào thần kinh tê liệt. Một khi mắc bệnh, bệnh nhân sẽ cảm nhận cơ thể từ từ đông cứng cho tới khi liệt hẳn. Họ dần mất khả năng vận động, không thể nhai thuốc, thức ăn và gặp khó khăn khi hít thở.

    Theo hiệp hội ALS (ALS Association), bệnh nhân thường chỉ có thể sống được 2-5 năm sau khi phát hiện. Hơn 50% người sống tới năm thứ ba, 20% sống được 5 năm nữa, nhưng vượt qua ngưỡng này, tỷ lệ sống sót giảm mạnh. Chỉ hơn 5% bệnh nhân có thể chống chọi bệnh trong 20 năm. Stephen Hawking là một trong số hơn 5% hiếm hoi ấy. Thiên tài khoa học đã hai lần đánh dấu cột mốc 20 năm sống cùng ALS.

    Khả năng sống sót phi thường của Hawking khiến nhiều chuyên gia cho rằng có thể ông đã chiến thắng hội chứng ALS. "Ông là một ngoại lệ. Tôi chưa từng thấy ai sống sót với căn bệnh này lâu đến thế. Điều phi thường không chỉ dừng lại ở độ dài thời gian, mà ở chỗ căn bệnh dường như đang suy yếu. Tình trạng bệnh ổn định như vậy là cực kỳ hiếm", Nigel Leigh, giáo sư về thần kinh học lâm sàng tại King’s College, London, phát biểu trênBritish Medical Journalnăm 2002.

    Hơn một thập kỷ sau nhận định của giáo sư Nigel, khi Hawking bước sang tuổi 70 vào năm 2012, nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục bày tỏ sự kinh ngạc. "Hawking thật phi thường. Tôi không biết ai từng sống sót lâu như vậy",APdẫn lời chuyên gia Anmar al-Chalabi nói.

    Theo nhiều nhà khoa học, cuộc chiến với ALS được bắt đầu sớm có thể phần nào lý giải cho kỳ tích sống sót của ông. Độ tuổi trung bình được chẩn đoán ALS là 55, trong khi các triệu chứng bắt đầu với Hawking khi ông còn rất trẻ.

    "Vào năm thứ ba tại Oxford, tôi nhận thấy mình ngày một vụng về. Tôi bị ngã một vài lần mà không rõ lý do. Mãi tới khi vào học tại Cambrigde, cha tôi mới chú ý và đưa tôi gặp bác sĩ. Ông ấy gửi tôi đến một chuyên gia và ngay sau sinh nhật 21 tuổi, tôi bắt đầu làm các xét nghiệm tại bệnh viện. Tin mình mắc bệnh thần kinh vận động làm tôi vô cùng sửng sốt", Hawking từng viết.

    [​IMG]
    Stephen Hawking bị liệt toàn thân và phải giao tiếp qua một thiết bị hỗ trợ phát giọng nói. Ảnh:Flickr

    Kết quả chẩn đoán sớm đưa Stephen vào chuỗi ngày sống chung với bệnh tật. Dù vậy, điều này đồng thời là cơ hội giúp ông sống sót lâu hơn so những người phát bệnh muộn. "Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân trẻ tuổi cao hơn rất nhiều. Một vài trường hợp có thể sống hơn 10 năm nữa", Leigh nói.

    Giáo sư Leo McCluskey từ Đại học Pennsylvania, Mỹ, cho biết ALS có thể gây tử vong theo hai cách. ALS làm suy yếu các cơ hô hấp, khiến người bệnh không thể hít thở. Mặt khác, căn bệnh cướp đi khả năng nhai nuốt gây mất nước, suy dinh dưỡng và dần lấy đi mạng sống. Nếu không nằm trong hai trường hợp trên, nhiều khả năng bệnh nhân sẽ sống sót trong thời gian dài.

    Dù vậy, thời gian sống của Hawking vẫn là một kỳ tích. Về phần mình, Hawking cho rằng công việc nghiên cứu đã tặng cho ông nhiều thời gian mà người khác không thể có được. "Tôi có một công việc và được chăm sóc đặc biệt. Điều này chắc chắn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tôi may mắn làm việc trong ngành vật lý lý thuyết, một trong số ít lĩnh vực mà sự tàn tật không phải là khuyết điểm quá quan trọng", Stephen chia sẻ vớiNew York Timesnăm 2011.

    Cuộc chiến bền bỉ chống lại căn bệnh hiểm nghèo của Hawking, dù được giải thích bằng lý do nào đi nữa, cũng khiến ông trở thành một minh chứng kỳ diệu cho sức sống của con người.

    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------



    Tiểu sử Stephen Hawking
    Nhà vũ trụ học Stephen Hawking được xem là một trong những nhà vật lý lý thuyết tài năng nhất kể từ Albert Einstein. Công việc của ông về nghiên cứu khởi nguyên và cấu trúc của vũ trụ - từ Big Bang cho tới lỗ đen – đã làm nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này; trong khí đó những cuốn sách ăn khách của ông đã lôi cuốn độc giả trên khắp thế giới - những người có lẽ chưa biết gì về tiểu sử khoa học của ông. Trong phần giới thiệu ngắn này, chúng ta cùng nhìn về sự nghiệp và sự học của Hawking – từ những khám phá cho tới những cuốn sách nổi tiếng mà ông đã viết – và căn bệnh đã lấy mất khả năng nói và di chuyển của ông.

    [​IMG]



    Cuộc đời đầy giông tố

    Nhà vũ trụ học người Anh Stephen William Hawking sinh tại nước Anh vào ngày 8/1/1942 – đúng 300 năm kể từ ngày chết của nhà thiên văn học Gelileo Galilei. Ông theo học tại trường đại học Oxford, chuyên ngành vật lý, mặc dù công việc của cha ông là tập trung vào thuốc men. Hawking theo học Cambrige để nghiên cứu vũ trụ học.

    Vào đầu năm 1963 – chỉ vừa bước qua tuổi 21 – Hawking mắc phải căn bệnh thoái hóa tế bào thần kinh vận động, hay còn gọi là bệnh Lou Gehrig. Ông được chẩn đoán và được cho là chỉ sống thêm không hơn hai năm nữa. Tuy vậy ông đã chống tại được số mệnh , không chỉ hoàn thành được học vị Tiến sĩ mà còn tiến lên và tiếp tục trên con đường dẫn tới sự hiểu biết về toàn vũ trụ trong nhiều thập kỷ tiếp theo.



    Khi căn bệnh trở nên trầm trọng hơn, khả năng hoạt động của Hawking mất dần và sau đó bị giam cầm trên chiếc xe lăn. Tới năm 1985, sau cuộc phẩu thuật mở khí quản ông đã mất luôn giọng nói. Thiết bị phát tiếng nói đã được hoàn thành bởi trường Cambrige – kết hợp với những chương trình phần mềm – đem đến cho ông giọng nói điện tử như ngày nay. Ông nói bằng cách dịch chuyển những cơ ở má để chọn lựa những từ ngữ.

    Ngay trước khi chẩn đoán bị bệnh, ông đã gặp Jane Wilde và cả hai đã kết hôn vào năm 1965. Cặp đôi đã có ba đứa con trước khi chia tay. Hawking tái hôn vào năm 1995 nhưng đã ly hôn vào năm 2006.



    Một trí óc vĩ đại

    Hawking làm nghiên cứu sinh ở Cambrige sau khi đã tốt nghiệp và không bao lâu sau trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Năm 1974 ông được mời vào Hội Hoàng Gia (Royal Society). Vào năm 1979 ông được bổ nhiệm làm Giáo sư Lucasian về Toán học ở Cambrige – chức danh đại học nổi tiếng nhất trên thế giới (Isaac Newton là người từng nắm vị trí này), đồng thời là thành viên của Hội Hoàng Gia.

    Hawking đã nghiên cứu về những định luật cơ bản chi phối vũ trụ. Ông đề xuất rằng – khi vũ trụ bắt đầu hình thành – Big Bang – nó sẽ có kết thúc. Cùng làm việc với nhà vũ trụ học Roger Penrose, Hawking đã chứng minh rằng thuyết Vạn vật hấp dẫn của Einstein đề xuất rằng không gian và thời gian bắt đầu vào thời điểm tạo nên vũ trụ, và kết thúc ở trong lòng những hố đen, vậy nên theo logic thuyết hấp dẫn của Einstein và thuyết lượng tử phải thống nhất với nhau.



    Sử dụng cả hai thuyết với nhau, Hawking cũng xác định rằng lỗ đen không hoàn toàn câm lặng mà thực sự phát ra những bức xạ. Ông dự đoán rằng, sau Big Bang, những lỗ đen có kích cỡ bằng những hạt proton đã được hình thành và thống trị cả lực hấp dẫn lẫn cơ học lượng tử.

    Hawking đề xuất rằng vũ trụ tự nó không hề có biên giới – rất giống Trái Đất. Dù nó có hạn, một người có thể đi vòng quanh Trái Đất ( cũng như đi xuyên vũ trụ) mà không bị đụng đầu vào bức tường nào – hay nói cách khác là không có điểm kết thúc.



    Những cuốn sách của Hawking

    Hawking là một tác giả nổi tiếng. Cuốn sách đầu tiên của ông – Lược sử thời gian (A Brief History of Time) được xuất bản vào năm 1988 và trở thành tác phẩm bán chạy trên toàn thế giới. Trong tác phẩm này Hawking nhắm tới những câu hỏi về khởi nguyên và kết thúc của vũ trụ của những người nghiệp dư.

    [​IMG]

    Kể từ đó, Hawking đã tiếp tục với những cuốn sách khoa học không viễn tưởng nhắm tới những người không chuyên nghiệp. Có thể kể tên các tác phẩm như “A Briefer History of Time," (Lược sử thời gian), "The Universe in a Nutshell," (Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ), "The Grand Design," (Thiết kế vĩ đại) and "On the Shoulders of Giants."



    Ông cũng đã viết một series sách khoa học viễn tưởng dành cho học sinh trung học về sự hình thành của vũ trụ, bắt đầu bằng cuốn “George and the Big Bang”.

    Hawking đã xuất hiện trên một vài chương trình truyền hình, như xuất hiện dưới ảnh chụp không gian chiều trong “Star Trek: The next Generation” và xuất hiện một vài cảnh trong chương trình truyền hình “Big Bang Theory”. Đài PBS đã giới thiệu một series giáo dục ngắn có tựa đề “Stephen Hawking’s Universe” (Vũ trụ của Stephen Hawking) khám phá những lý thuyết về vũ trụ.



    Những lời trích dẫn từ Stephen Hawking

    Những phát ngôn của ông có cả những phát ngôn đáng chú ý, những câu nói đầy chất thơ và cũng có những lời gây tranh cãi. Một vài câu trong số đó:

    • Ngay cả khi có thể chỉ có một thuyết thống nhất duy nhất, nó cũng chỉ là một tập hợp của các công thức và phương trình. Thứ gì đã thổi lửa vào những phương trình và tạo nên cả vũ trụ để chúng mô tả ? Sự tiếp cận bất thường về khoa học tạo nên những mô hình toán học không thể trả lời câu hỏi tại sao lại có một vũ trụ để mô hình ấy mô tả ? Tại sao vũ trụ lại xuất hiện một cách phiền nhiễu như thế ? ("Even if there is only one possible unified theory, it is just a set of rules and equations. What is it that breathes fire into the equations and makes a universe for them to describe? The usual approach of science of constructing a mathematical model cannot answer the questions of why there should be a universe for the model to describe. Why does the universe go to all the bother of existing? ")
    • Cả đời tôi, tôi đã bị mê hoặc bởi những câu hỏi lớn ngay trước mắt chúng ta và đã thử tìm câu trả lời khoa học . Nêu, cũng như tôi, bạn nhìn vào ngôi sao và cố gắng thấu hiểu về thứ mà bạn đang ngắm nhìn, bạn cũng có thể đã tự hỏi thứ gì đã làm cho vũ trụ tồn tại ? ("All of my life, I have been fascinated by the big questions that face us, and have tried to find scientific answers to them. If, like me, you have looked at the stars, and tried to make sense of what you see, you too have started to wonder what makes the universe exist.")
    • Khoa học dự đoán rằng rất nhiều loại vũ trụ sẽ tự xuất hiện từ hư không. Việc chúng ta xuất hiện ở vũ trụ chỉ là tình cờ ("Science predicts that many different kinds of universe will be spontaneously created out of nothing. It is a matter of chance which we are in.")
    • Toàn bộ lịch sử của khoa học là sự nhận thức từ từ rằng những sự kiện không xảy ra theo một lề thói độc đoán mà thực ra chúng phản ánh một trật tự nào đó vốn, có thể có hoặc không, gây ra bởi những lời chỉ bảo của thần thánh. ("The whole history of science has been the gradual realization that events do not happen in an arbitrary manner, but that they reflect a certain underlying order, which may or may not be divinely inspired. ")
    • Chúng ta nên tìm kiếm giá trị vĩ đại nhất của những hành động của chúng ta. ("We should seek the greatest value of our action.")
    • Kẻ thù lớn nhất của kiến thức không phải là sự phớt lờ mà chính là sự ảo tưởng về kiến thức. (“The greatest enemy of knowledge is not ignorance, it is the illusion of knowledge.")
    • Thông minh là khả năng thích ứng với sự thay đổi. ("Intelligence is the ability to adapt to change.")
    • Rõ ràng rằng trí thông minh không có bất kì giá trị nào tồn tại lâu dài cả. ("It is not clear that intelligence has any long-term survival value. ")
    • Không ai có thể tranh cãi được với một định lý toán học. ("One cannot really argue with a mathematical theorem. ")
    • Thật lãng phí thời gian nếu tôi nổi giận với khuyết tật của bản thân. Ai cũng phải tiếp tục sống và tôi thì vẫn chưa đi đến đoạn kết cuộc đời. Mọi người sẽ không dành thời gian với bạn nếu bạn cứ mãi bực tức và phàn nàn. ("It is a waste of time to be angry about my disability. One has to get on with life and I haven't done badly. People won't have time for you if you are always angry or complaining.")
    Ông đã nói rằng con người phải rời Trái Đất nếu chúng ta muốn tồn tại: “Rất khí để tránh thảm họa trong một trăm năm tới, hay an lành trong một ngàn, một triệu năm tiếp…Cơ hội duy nhất của chúng ta để sống sót lâu dài để không mãi chăm chăm vào Trái Đất nữa mà phải mở rộng ra khắp vũ trụ.

    Ông cũng nói rằng du hành thời gian là điều có thể, và rằng chúng ta nên khám phá vũ trụ vì sự lãng mạn của nó: “Khoa học không chỉ là môn đồ của lý trí mà còn là của lòng đam mê và sự lãng mạn”.



    Hawking cũng có những câu nói gây tranh cãi liên quan đến tôn giáo: “Tôi xem bộ não như một máy vi tính vốn sẽ ngừng hoạt động khi những thành phần của nó hư hại. …Không có thiên đường hay kiếp sau nào phá hỏng máy vi tính hết; đó là một câu truyện cổ tích dành cho những con người sợ hãi bóng tối.



    Thái Sơn - HAAC

    Theo Nola Taylor Redd/Space.com



    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------

    Bí ẩn lớn nhất của nhà khoa học Stephen Hawking
    Khi tác giả của cuốn sách“Brief History of Time”(Lược sử thời gian) được hỏi rằng ông nghĩ về điều gì nhiều nhất,vị giáo sư ở ĐH Cambridgenhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới Stephen Hawking), vốn nổi tiếng là người tìm ra câu trả lời cho những vấn đề hóc búa nhất của vật lý hiện đại khẳng định, với ông điều bí ẩn lớn nhất là phụ nữ!

    Vị giáo sư ngồi trên xe lăn, người vừa về hưu sau một thời gian nắm giữ vị trí của Isaac Newton trước đây, sẽ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 vào cuối tuần này với một hội nghị chuyên đề về “Trạng thái của vũ trụ”tại trung tâm vũ trụ học của ĐH Cambridge (Anh).

    [​IMG]

    *Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Cha mẹ ông là Frank và Isobel Hawking, trước Đệ nhị thế chiến họ sống ở miền bắc Luân Đôn, nhưng sau đó chuyển đến Oxford cho an toàn. Hai năm cuối ở trung học St Albans, Oxford, Hawking rất thích thú với môn toán vì có cảm hứng từ một người thầy ở trường này. Nhưng cha ông, một dược sỹ lại phản đối ý kiến của con trai mà muốn ông học ngành hóa học. Một phần bị thuyết phục bởi người cha, sau khi tốt nghiệp, Hawking theo học University College ở Oxford, đây chính là trường mà cha ông từng theo học trước đây. Nhưng trường này không có ngành toán, chính vì thế mà ông theo học ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

    University College ở Oxford trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng bệnh về thần kinh có tên làbệnh Lou Gehrig: ông gần như mất hết khả năng cử động. Các bác sỹ nói rằng, ông không sống lâu để có thể hoàn thành luận án tiến sỹ. Sau này, ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không còn khả năng nói chuyện bình thường được nữa. Ông bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Tuy vậy, luận án vẫn được hoàn thành vào năm 1966. Lúc bấy giờ, chưa có ai nghiên cứu về ngành khoa học này ở đại học Cambridge. Người hướng dẫn của ông là Denis Sciama chứ không phải là người mà ông trông đợi là Fred Hoyle. Bảo vệ luận án tiến sỹ xong, ông làm nghiên cứu một thời gian cho viện Thiên văn học rồi chuyển đến khoa Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Cambridge (năm 1977) và làm việc từ đó cho đến ngày nay.

    Năm 1990, ông đã nhận một cô bé người Việt sinh năm 1980 là Nguyễn Thị Thu Nhàn đang sống tại làng trẻ em SOS Hà Nội làm con nuôi, và ông đã sang Việt Nam năm 1997 để thăm cô.

    Tháng 4 năm 2010, ông đã phát biểu một bài diễn văn về người ngoài hành tinh. Ông nghĩ rằng người ngoài hành tinh là có thật và nếu như họ đến Trái Đất thì chúng ta nên tránh tiếp xúc với họ, vì họ sẽ giống như người Châu Âu ngày xưa khám phá ra Châu Mĩ (là Trái Đất). Họ sẽ xâm lăng và đô hộ Trái Đất nhằm mục đích lấy tài nguyên đã cạn kiệt ở hành tinh họ.

    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------
    Cuộc đời của Stephen Hawking qua ảnh
    Là nhà vật lý nổi tiếng người Anh, dù chịu bệnh tật nhưng trí tuệ và cuộc đời của giáo sư Stephen Hawking luôn khiến cả thế giới nể phục.

    Cuộc đời của ông hoàng vật lý Stephen Hawking
    Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Ông từng theo họcĐH Oxford, ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đếnĐH Cambridgeđể tiếp tục theo đuổi luận án tiến sĩ về vũ trụ học. Trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng bệnh về thần kinh có tên làbệnh Lou Gehrig: ông gần như mất hết khả năng cử động. Sau này, ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không còn khả năng nói chuyện bình thường được nữa. Ông bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó.

    Lĩnh vực chính của Hawking là nghiên cứulý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử. Năm 1971, ông đưa ra các công trình toán học ủng hộ cho lý thuyếtVụ nổ lớnvềnguồn gốc vũ trụ: nếu lý thuyết tương đối rộng là đúng thì vũ trụ cần phải có một điểm kì dị, một điểm khởi đầu trong không thời gian. Ông còn cho rằng, sau Vụ nổ lớn, các hố đen nguyên thủy hoặc các hố đen siêu nhỏ được hình thành và chứng minh rằng diện tích bề mặt của hố đen không bao giờ giảm, rằng tồn tại một giới hạn trong quá trình phát xạ khi các hố đen va vào nhau và rằng một hố đen không thể bị tách thành hai hố đen riêng biệt.

    Telegraph giới thiệu chùm ảnh về cuộc đời của giáo sư Hawking:

    [​IMG]
    Stephen Hawking (trái) cùng em gái Mary.

    [​IMG]
    Nhà vật lý Hawking ở độ tuổi 12 (trái) và khi tốt nghiệp ĐH Oxford năm 1962.

    [​IMG]
    Vào năm 19 tuổi, Stephen Hawking tham gia đội chèo thuyền ở ĐH Oxford trong vị trí người điều hành.

    [​IMG]
    Đám cưới của Hawking với Jane Wilde năm 1965.

    [​IMG]
    Hawking cùng vợ và con trai Tim sau buổi lễ nhận bằng danh dự của trường ĐH Cambridge.

    [​IMG]
    Hawking được thỉnh giảng tại một lớp của ĐH Northeastern ở Boston vào năm 1990.

    [​IMG]
    Stephen Hawking trong đám cưới với người vợ thứ hai, Elaine Mason năm 1995. Họ đã chia tay sau ba năm chung sống.

    [​IMG]
    Hình ảnh Stephen Hawking tháng 4/1996.

    [​IMG]
    Giáo sư Hawking tại trung tâm nghiên cứu toán học, ĐH Cambridge, tháng 10/2001.

    [​IMG]
    Giáo sư Hawking diện kiến Nữ hoàng Anh trong phòng hòa nhạc ở Cung điện Buckingham, ngày 18/5/2006.

    [​IMG]
    Giáo sư Hawking thử nghiệm cảm giác không trọng lực trên một chiếc máy bay, tháng 4/2007.

    [​IMG]

    Giáo sư Hawking "khai trương" chiếc đồng hồ Corpus tại trường Corpus Christi, thuộc ĐH Cambridge, tháng 9/2008.

    [​IMG]Nhà lãnh tụ của phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc Nam Phi Nelson Mandela gặp Hawking ở Johannesburg tháng 5/2008.

    [​IMG]
    Giáo Hoàng Benedict XVI chào đón Hawking trong một buổi gặp gỡ đặc biệt dành cho các nhà khoa học tại Vatican trong tháng 10/2008.

    [​IMG]
    Tổng thống Mỹ Barack Obama đã trao Huân chương Tự do cho Stephen Hawking trong một buổi lễ tại Phòng Đông của Nhà Trắng. Đây là huy chương dân sự cao quý nhất tại Mỹ.


    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------

    Stephen Hawking: Tình yêu của vợ đã thay đổi cuộc đời tôi
    Thiên tài vũ trụ Stephen Hawking hạnh phúc nhớ lại: "Jane Wilde và tình yêu không điều kiện của cô ấy đã thay đổi cuộc đời tôi. Nó đã cho tôi một nguồn sức mạnh để sống".

    Stephen Hawkinglà nhà vật lý học, khoa học vũ trụ được biết đến với công trình nổi tiếngLược sử thời gianThuyết vạn vậttrong thế kỷ 21.

    Không chỉ được ghi nhận bởi những đóng góp to lớn vềkhoa học, ông còn được thế giới ngưỡng mộ bởi ý chí, nghị lực phi thường khi vượt qua căn bệnh hiểm nghèo để tiếp tục sống và theo đuổi đam mê nghiên cứu.

    [​IMG]
    Stephen Hawking là nhà vật lý học và là bậc thầy về khoa học vũ trụ

    Bản án tử hình ở tuổi 22
    Ở tuổi 22, Stephen Hawking mắc phảicăn bệnh nghiệt ngãvà được cho là sắp chết, nhưng ông đã hành động như vừa được tái sinh. Khi hầu hết những người trưởng thành trẻ tuổi chào đón tương lai rộng mở tràn trề triển vọng, Hawking đã bị trao cho một án tử hình.

    Các bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh ASL - một căn bệnh về thần kinh vận động liên quan tới hội chứng teo cơ bên ngay sau sinh nhật 21 của ông. Chứng bệnh đó đang tiến triển nhanh chóng, và bác sĩ nói rằng ông chắc chắn không thể sống quá 25 tuổi. Tuy nhiên, sau khi chìm sâu vào trầm cảm, nhà vật lý trẻ tuổi đã tìm thấy được sự hồi phục sức mạnh ở một nguồn động lực không ngờ tới.

    [​IMG]
    Chàng thanh niên ngành thiên văn vật lý Stephen Hawking đã bị trao cho một án tử hình khi mới 22 tuổi

    Sinh ra ở Oxford, Anh vào năm 1942, Hawking là một đứa trẻ vô cùng thông minh nhưng vụng về trong giao tiếp xã hội. Ông muốn nghiên cứu toán học, nhưng cha của ông, một nhà nghiên cứu y khoa nổi tiếng, đã thuyết phục ông học ngành y.

    Sau khi thảo luận với cha mẹ, Hawking đã quyết định học khoa học tự nhiên và vật lý học tại Oxford, trường cũ của cha mình. Chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp, nhà khoa học trẻ tuổi quyết định theo đuổi tấm bằng Tiến sĩ ngành Vũ trụ học tại Cambridge.

    Tuy nhiên, trong suốt năm 1962, Hawking nhận thấy mình trở nên vụng về, khó khăn trong việc buộc giày và thỉnh thoảng gặp khó khăn khi nói. Trong dịp nghỉ Giáng sinh, mẹ ông đã thuyết phục ông đi khám. Một loạt các kiểm tra đã cho thấy kết luận đáng kinh ngạc về sự tiến triển của bệnh thần kinh vận động (MND). Và tất cả những hứng thú của ông về việc học vũ trụ học, những kế hoạch cho tương lai, xem như trở nên vô nghĩa.


    [​IMG]
    Stephen Hawking tốt nghiệp ĐH Oxford năm 1962

    Hawking bị chìm sâu vào trầm cảm và trốn biệt trong phòng."Tôi cảm thấy đời mình như một tấm bi kịch. Tôi bắt đầu nghe nhạc của nhà soạn nhạc Wagner", ông kể."Tôi xem âm nhạc của Wagner thật sự phù hợp với tâm trạng u tối của tôi".

    Hawking cũng nhớ lại thời gian đó ông luôn ước gì mình có được cơ hội sinh ra lần thứ hai."Trước khi tình trạng sức khỏe của tôi được chẩn đoán, tôi đã luôn cảm thấy chán nản với cuộc sống. Dường như không có điều gì đáng cho tôi làm. Nhưng không lâu sau khi ra khỏi bệnh viện tôi mơ thấy mình chuẩn bị nhận bản án tử hình. Tôi chợt hiểu ra rằng đã có rất nhiều thứ đáng để làm, nếu tôi được giảm nhẹ bệnh".

    Tình yêu – Liều thuốc kỳ diệu
    Dẫu cho giấc mơ được giảm nhẹ bệnh dường như không thể xảy ra, Hawking đã tìm thấy cảm hứng trong một lĩnh vực mà ở đó ông chưa bao giờ có được nhiều may mắn: Tình yêu. Ông đã yêu Jane Wilde, cô nữ sinh cùng trường mê văn chương và sùng đạo.

    Cô đã cảm phục Hawking, hứa hẹn sẽ chăm sóc ông khi tình trạng sức khỏe của ông xấu đi. Và không lâu sau, cô đón nhận lời cầu hôn của Hawking trong hạnh phúc. Hawking nhớ lại: "Jane Wilde và tình yêu không điều kiện của cô ấy đã thay đổi cuộc đời tôi. Nó đã cho tôi một nguồn sức mạnh để sống".




    [​IMG]
    Stephen Hawking đem lòng yêu Jane Wilde, cô nữ sinh cùng trường mê văn chương và sùng đạo
    Trong tâm trạng héo hon bởi cái chết sắp đến, những suy nghĩ của Hawking bấy giờ tập trung vào vị hôn thê của mình. Ông muốn cưới cô trước khi chết, nhưng quy tắc xã hội yêu cầu ông trở thành một người có công việc làm trong xã hội. Để được kết hôn, ông cần một công việc; để có một công việc, ông cần một học vị tiến sĩ; để có được học vị tiến sĩ nghĩa là ông phải trở lại làm việc.

    Ở tuổi 22, Hawking đã quyết định quên đi sự trầm cảm của mình. "Bạn cần phải đủ chín chắn để nhận thức được rằng cuộc sống không công bằng. Hãy làm những gì tốt nhất trong điều kiện của mình", sau này Hawking nói."Bởi vậy, tôi đã bắt đầu đi làm lần đầu tiên trong đời. Ngạc nhiên thay, tôi nhận ra rằng mình thích được làm việc".

    [​IMG]
    Đám cưới hạnh phúc giữa Stephen Hawking và Jane Wilde

    Ông cũng đặt ra mục tiêu rất cao: kế hoạch viết luận án của ông là áp dụng lý thuyết độc nhất của Roger vào cả vũ trụ. Ông đã làm kinh ngạc các giáo sư và đồng nghiệp với công trình sáng tạo của mình.
    Năm 1965, Hawking công bố luận án của mình và được Cambridge trao bằng tiến sĩ. Tác phẩm này đã tạo ra sự ngưỡng mộ trên toàn thế giới về vũ trụ học và tạo ra một sự nghiệp vững chắc cho Hawking. Ngay sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông đã kiếm được một công việc. Và ngay sau đó, ông kết hôn với Jane Wilde.

    [​IMG]
    Tình yêu với vị hôn thê đã giúp Stephen Hawking vượt qua căn bệnh hiểm nghèo

    Đó là năm 1965, khoảng thời gian ông được tiếp tục sống dường như không còn bao lâu nữa. Khi tình trạng sức khỏe của ông trở nên tồi tệ, Hawking vẫn tiếp tục công việc của mình với sự giúp đỡ của vợ. Ông quyết định sống từng ngày và tận hưởng từng khoảnh khắc cuộc sống còn lại.

    Con đường hôn nhân hạnh phúc nhưng cũng đầy chông gai
    Những năm mới cưới đầy hoạt động sôi nổi: Jane sống ở London trong thời gian cô hoàn thành việc học đại học và họ du hành tới Mỹ vài lần cho hội thảo và các cuộc gặp liên quan tới vật lý. Cặp vợ chồng rất vất vả mới thuê được nhà trong tầm đi bộ tới Khoa Toán học Ứng dụng và Vật lý lý thuyết (DAMTP) ở Đại học Cambridge nơi ông nhận một vị trí giảng dạy.

    [​IMG]
    Cặp vợ chồng Stephen Hawking và Jane hạnh phúc bên ba đứa con

    Chính tình yêu dành cho khoa học cùng sự cổ vũ hết mình của Jane đã tiếp thêm sức mạnh cho Stephen Hawking để ông tiến lên phía trước và dành được những thành tựu không tưởng. Họ hạnh phúc ngắm nhìn ba đứa trẻ - kết tinh tình yêu của họ - lần lượt chào đời.

    Tuy nhiên, cuộc hôn nhân tưởng chừng như hoàn mỹ của Stephen và Jane bắt đầu gặp thử thách. Bệnh tật khiến ông trở nên mất tự tin vào bản thân mình cũng như tạo áp lực đè nặng lên đôi vai của vợ.

    Jane đã từng có những lúc yếu lòng và nảy sinh tình cảm với Jonathan Hellyer Jones – một nhạc công đàn organ tại dàn nhạc nhà thờ, người rất quan tâm và ngày càng trở nên gần gũi với gia đình Hawking.Stephen Hawkinghiểu những gánh nặng trên đôi vai bé nhỏ của Jane và chấp nhận hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, Jane là một người vợ chung thủy và trong sâu thẳm bà vẫn dành tình yêu cho người chồng đã gắn bó với mình hơn 20 năm qua. Bà và Hellyer Jones quyết định không phá vỡ gia đình và mối quan hệ giữa hai người vẫn giữ trong sáng trong một thời gian dài.


    [​IMG]
    Cuộc hôn nhân với Jane hạnh phúc nhưng cũng đầy chông gai

    Trong một chuyến đi thăm CERN ở Genève mùa hè năm 1985, Hawking mắc viêm phổi mà với thể trạng sẵn yếu ớt của ông nó có thể đe dọa tính mạng. Đã có lúc bác sĩ hỏi Jane về việc chấm dứt các thiết bị duy trì sự sống của ông. Bà kiên quyết từ chối và ông đã sống sót, nhưng phải trải qua một ca phẫu thuật mở khí quản đòi hỏi chăm sóc điều dưỡng suốt ngày đêm và loại bỏ năng lực phát âm ít ỏi còn lại của ông. Cơ quan Chăm sóc Sức khỏe Anh (NHS) nhận trả phí ở viện điều dưỡng nhưng Jane cương quyết muốn ông sống ở nhà. Chi phí chăm sóc được một quỹ ở Mỹ chu cấp. Các y tá được thuê suốt ba ca để chăm sóc ông 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày.

    Một lần nữa con thuyền hôn nhân của họ lại chòng chành trước sóng gió. Đó là khi Hawking trở nên ngày càng gần gũi với một trong số các y tá của ông, Elaine Mason. Cuối cùng Hawking nói với Jane rằng ông đang rời bỏ bà để tới với Elaine và rời ngôi nhà chung của hai người vào tháng 2 năm 1990.


    [​IMG]
    Hawking kết hôn với Elaine, một trong những y tá chăm sóc ông

    Hawking và Jane chính thức ly dị vào mùa xuân năm 1995, sau đó tới tháng 9 Hawking kết hôn với Elaine.

    Tuy nhiên, cuộc hôn nhân thứ hai này không mấy hạnh phúc. Năm 2006, Hawking và Elaine lặng lẽ ly dị. Từ đó, Hawking nối lại quan hệ gần gũi hơn với Jane, cũng như các con và cháu của mình.

    [​IMG]
    Stephen Hawking cùng người vợ đầu Jane và hai con tại Đại học Cambridge vào năm 2013

    Vậy là qua bao nhiêu trở ngại, họ lại trở về bên nhau, cùng nhau trải qua những thử thách nghiệt ngã của tạo hóa và dư luận.

    Hành trình tới vô hạn...
    Một phiên bản hiệu chỉnh của hồi ký trước đây của Jane, nay mang tên mớiTravelling to Infinity: My Life with Stephen(tạm dịch: Hành trình tới Vô hạn, Cuộc đời tôi với Stephen) đã tái hiện quãng thời gian nối lại hạnh phúc của hai người.

    [​IMG]
    Vợ chồng Stephen Hawking thật (trái) và 2 diễn viên chính trong phim "The Theory of Everything" (phải)

    Cũng dựa trên cuốn hồi ký này, bộ phimThe Theory of Everything(tựa Việt: Thuyết yêu thương) ra đời, tái hiện cho khán giả một cách chân thực và cảm động về gần như toàn bộ quãng đời của nhà vật lý tài ba, từ khi ông còn là một sinh viên trên giảng đường cho tới lúc trở thành một giáo sư ngồi xe lăn, được vinh danh bằng các giải thưởng khoa học uy tín.

    Không cố gắng xây dựng một tượng đài, cũng không tô vẽ những ánh hào quang,The Theory of Everythinglà một góc nhìn khác, giản dị, đời tư hơn vềStephen Hawkingsau những đóng góp, cống hiến của ông cho nhân loại. Một cuộc hôn nhân đổ vỡ, những mặc cảm, tự ti vì căn bệnh hiểm nghèo, hay những lựa chọn đầy thanh thản, bao dung là những góc khuất sau cuộc đời nhà bác học tài ba mà đến giờ, công chúng mới được biết đến.

    [​IMG]
    Stephen Hawking và Jane tham dự lễ ra mắt phim The Theory of Everything vào tháng 12/2014

    Bộ phim đã thành công khi hòa quyện được hai yếu tố: sự uyên bác về kiến thức của Stephen Hawking và sự hy sinh cũng như tình yêu của Jane trong chặng đường chông gai đi tìm một công thức “lý giải tất cả mọi điều trong vũ trụ”...

    Bộ phim không những thuyết phục được khán giả mà còn khiến chính nguyên mẫu, tức Stephen Hawking, phải rơi nước mắt tại buổi công chiếu bởi tính chân thực và những cảm xúc mà nó mang lại.


    Phong Linh(T/h)



    ------------------------------------------- o0o ----------------------------------------
    Vén màn bí ẩn huyền thoại Stephen Hawking
    Stephen Hawking, một trong những khoa học gia nổi tiếng nhất thế giới đương đại, được nhiều người trong giới chuyên môn coi như một siêu nhân, được các phương tiện truyền thông xếp vào hàng những thiên tài bất tử như Einstein, Newton, Galileo... Nhà bác học ngay từ thời thanh niên đã bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo, khiến ông dần dần liệt toàn thân, chỉ có thể di chuyển bằng xe lăn. Làm thế nào Stephan Hawking có thể làm việc trong điều kiện này ? Hawking có thực sự thiên tài ?
    Trong công chúng phổ biến một niềm tin cho rằng nhà bác học người Anh Stephen Hawking, sinh năm 1942, người kế nhiệm vị trí của thiên tài Isaac Newton tại đại học Cambdrige, là hiện thân cho sức sáng tạo phi thường của một bộ óc đơn độc, bất chấp tình trạng tật nguyền của cơ thể, hoạt động không ngừng nghỉ để giải mã các bí ẩn lớn của vũ trụ, viết sách phổ biến khoa học,

    Giới nghiên cứu ghi nhận Hawking là tác giả của một số công trình vật lý lý thuyết quan trọng, như lý thuyết kỳ dị hấp dẫn và lý thuyết về hố đen phát ra bức xạ (được mệnh danh là «bức xạ Hawking»). Stephen Hawking cũng được coi là người đi đầu trong việc khởi xướng cho hướng nghiên cứu vũ trụ học có tham vọng thống nhất thuyết tương đối tổng quát với cơ học lượng tử.

    Nhà khoa học tàn tật tài danh Stephen Hawking hoạt động như thế nào trong cuộc sống đời thường ? Đó là chủ đề của cuốn sách do nhà xã hội học Pháp Hélène Mialet thực hiện. Công trình được in bằng tiếng Anh năm 2012, bản tiếng Pháp vừa được ấn hành đầu năm nay. Nhân dịp này, chương trình tạp chí Khoa học «Autour de la question» của RFI có cuộc tọa đàm cùng tác giả.

    Mượn từ các nhà dân tộc học các công cụ nghiên cứu và phân tích, Helène Mialet đã tiến hành một cuộc điều tra nhiều năm để tìm hiểu về nhà bác học Stephen Hawking trong các hoạt động khoa học thường ngày và tìm cách lý giải quá trình tạo dựng nên huyền thoại Hawking.

    Những phần « cơ thể nối dài » của Hawking

    Năm 1962, chàng thanh niên Stephan Hawking xuất chúng được bác sĩ chẩn đoán teo cơ bên và chỉ có hy vọng sống thêm hai năm. Cho dù không hứng phải lưỡi hái của thần chết, nhưng kể từ đó, chứng liệt dần dần chi phối gần như toàn bộ thân thể nhà bác học. Cho đến năm 1985, sau một trận viêm phổi thập tử nhất sinh, khả năng phát âm ít ỏi còn lại của ông cũng mất hẳn. Làm thế nào Stephan Hawking có thể làm việc trong điều kiện này ? Nhà xã hội học Hélène Mialet mô tả :

    «Nhờ một phần mềm tin học của Woltosz, ông mới có thể giao tiếp, bằng cách lựa các chữ trên máy tính, để đặt thành câu, và một giọng nói nhân tạo được lập trình để truyền đạt những điều ông muốn diễn tả. Ngược hẳn lại với những gì nhiều người vẫn tin rằng Hawking là một tinh thần thuần túy, là hiện thân cho một cá nhân hoạt động độc lập, nghiên cứu mà tôi thực hiện cho thấy vai trò rất quan trọng của máy móc, của các trợ lý, của các sinh viên, của tất cả những người sống xung quanh ông, đã cho phép ông ấy tạo ra được các lý thuyết, cho phép ông ấy giao tiếp, đặc biệt với giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể. Khi các sinh viên, các trợ lý hỏi ông ấy một điều gì, ông đáp lại bằng cách nhướn lông mày để biểu thị thái độ phủ nhận hay đồng ý. Các trợ lý là những người thường xuyên làm công việc ‘‘phiên dịch’’ những điều ông ấy muốn ‘‘nói’’ và sau đó chuyển những nội dung này thành những hình thức cụ thể. Sau đó, những biểu hiện này được coi là của Stephen Hawking. Câu hỏi khiến tôi quan tâm ở đây là thiên tài từ đâu mà tới, những hành động được thực hiện là do ai, do ông ấy hay do những người khác ? Trên thực tế, những người khác đã làm thay ông ấy rất nhiều».

    Trả lời câu hỏi của RFI, phải chăng bản thân Hawking cũng tham gia vào việc tạo dựng nên huyền thoại về việc bộ não ông hoàn toàn chủ động, hoàn toàn tự do.

    «Hoàn toàn đúng như vậy. Đây là một khía cạnh khác mà tôi muốn thể hiện trong cuốn sách. Stephen Hawking tham gia như thế nào vào việc tạo thành huyền thoại về chính mình bằng việc biểu lộ hay không biểu lộ sự tàn tật của mình. Và truyền thông đã tái sử dụng điều này như thế nào, đặt lại các phát ngôn của ông ấy vào các bối cảnh khác như thế nào, diễn giải lại các phát ngôn ấy như thế nào.

    Ông ấy đã xây dựng cho mình những hình ảnh của một thiên tài. Ở đây có một vấn đề trước đây không được đặt ra, mà tôi cố gắng đề cập đến, cụ thể là : Chính ông ấy là người có ý tưởng, rồi sau đó những người khác phiên dịch lại, hay là những người khác làm rất nhiều thứ, đem lại cho ông ấy nhiều thứ (ví dụ như ông ấy được đọc những gì người ta mang đến, tiếp thu chúng và sử dụng chúng theo ý mình) ? Ở đây có việc Stephen Hawking chú tâm vào việc tạo ra danh tiếng cho mình. Nhưng thực ra đây cũng là cách làm việc của nhiều nhà khoa học khác, và việc ông làm cũng không phải là một ngoại lệ».

    Trong cuốn «Đi tìm con người Stephen Hawking», Hélène Mialet đưa ra nhiều ví dụ cụ thể về các hoạt động mà tác giả gọi là «phần cánh tay nối dài» của Hawking, tức các máy móc và tập thể con người xung quanh ông (bao gồm các sinh viên, các trợ lý, y tá, những người túc trực 24 giờ/24 giờ để chăm sóc và bảo đảm an toàn sinh mạng của nhà bác học). Thư ký riêng lo việc tổ chức, hành chính và trợ lý nghiên cứu sinh được trường đai học tài trợ để «giúp giáo sư khắc phục thể trạng khuyết tật» trong những lần ông phải đi giảng dạy hay làm công vụ khác. Theo tác giả, nhiều quan sát cho thấy Hawking vừa là người chỉ đạo, một cái nhướng mày, một nụ cười của ông ấy trở thành mệnh lệnh, nhưng ngược lại, các trợ lý và máy móc cũng giải thích các cử chỉ của ông tùy theo cách hiểu của mình. Có khi họ giải thích đúng, có lúc giải thích sai, cũng có khi bổ sung vào những khoảng lặng của ông là những hành động theo luận giải của riêng họ… Những gì được coi là hành động của Hawking đều được thực hiện thông qua thế giới trợ lý của ông.

    Tuy nhiên, dù bại liệt toàn thân và không nói được từ ba mươi năm nay, nhưng theo mô tả của nhà xã hội học, Hawking hoàn toàn không phải là một con người thụ động. Tác giả cuốn sách chỉ ra vài ví dụ : Tự Hawking chọn lựa người y tá nào sẽ đi cùng mình trên máy bay, trả đũa một ai mà ông ghét bằng cách nghiến lên chân người đó bằng chiếc xe lăn của ông, để cho sinh viên thông báo một công ty đang xây dựng một phần mềm tiếng Anh giọng Anh để thay thế tiếng Anh giọng Mỹ mà ông vẫn hay dùng (dù đó không phải là sự thực), hay chọc cười các nhà báo và công chúng mỗi khi có dịp, sử dụng ngay cả sự chậm trễ trong phản ứng của ông để gây cười…

    « Những cộng sự thân cận nhất »

    Nhà xã hội học Hélène Mialet đặc biệt chú ý đến quan hệ giữa Hawking và các sinh viên. Hawking dành rất nhiều thời gian để «đối thoại» với sinh viên, tất nhiên là thông qua máy tính. Giống như nhiều nhà giáo-nhà khoa học khác, Hawking có một mối quan hệ hợp tác hết sức mật thiết với sinh viên, «các cộng tác viên thân cận nhất» như điều mà ông thường nhắc. Gần như không ngày nào mà Hawking không «làm việc» với một nghiên cứu sinh. Mỗi khóa học nhà vật lý thiên văn nhận hướng dẫn một nghiên cứu sinh, để ông liên tục có nghiên cứu sinh bên cạnh mình. Người mà ông nhận thường là sinh viên xuất sắc nhất ngành toán trong số hàng trăm sinh viên xuất sắc trên toàn thế giới. Để được phép làm việc với người thừa kế Isaac Newton nghiên cứu sinh phải lọt qua ba vòng thi tuyển

    Nhiều cựu nghiên cứu sinh kể lại khi bắt đầu làm việc với Stephen Hawking, ngay lập tức họ phải đối mặt với những vấn đề hết sức phức tạp, như thể bị «thả vào giữa rừng hoang với bầy dã thú ». Một sinh viên cho biết «ông ấy đã yêu cầu tôi thực hiện một công việc phi phàm, chính vì thế mà tôi đã không hoàn thành và phần lớn các sinh viên của ông đều phải làm việc như điên, về các vấn đề cơ bản, mà về nguyên tắc phải dành cho các nhà nghiên cứu có tay nghề. Stephen yêu cầu chúng tôi thích ứng với các vấn đề căn bản này các ý tưởng của ông và cách tư duy của ông». Ví dụ như tất cả các sinh viên đều phải đọc cùng một cuốn «Hấp dẫn lượng tử Euclide» của ông và người đồng nghiệp Gary Gibbon, để có cùng một cơ sở chung. Để rồi sau đó, mỗi người được giao một hướng riêng hoàn toàn khác với những người đồng môn, nhưng đều là những gì tiếp nối các nghiên cứu sinh đi trước. Công việc của các nghiên cứu sinh là rút ra các hệ quả, thẩm định các phát hiện hay các ý tưởng của Hawking.

    Bị liệt toàn thân Hawking không thể tự mình làm toán, phần việc này ông hoàn toàn ủy thác cho các sinh viên. Theo mô tả của một cựu sinh viên, nhà vật lý lý thuyết chỉ đưa ra một ý tưởng mang tính trực giác, các sinh viên có trách nhiệm thực hiện toàn bộ phần mô tả toán học. Khi có một cuộc trao đổi với Hawking, người sinh viên phải có một thái độ vô cùng kiên nhẫn, vì người hướng dẫn trả lời vô cùng chậm chạp, không những do sự tàn tật, mà Hawking có thái độ hết sức tỉ mỉ trong việc chọn từ, «ông ấy chọn ít từ nhất có thể» và vì vậy những câu trả lời của Hawking trở nên bí hiểm. Một phần vì các lý thuyết mà ông làm việc chưa được xác định rõ ràng, nên Hawking cũng không thể đi vào chi tiết…

    Bất chấp nhiều bất lợi khi làm việc với người thầy tàn tật, thậm chí có khi tên mình không được ghi trong bài viết, rất nhiều nghiên cứu sinh cảm thấy thỏa mãn khi được đào tạo với Hawking, bởi họ tin rằng chắc chắn sẽ được làm việc với những gì «rất độc đáo», «rất thú vị», chứ không phải là tái chế một thứ gì đó, hay thêm thắt vào một thứ gì đó để thành cái của mình…

    Tác giả cuộc nghiên cứu về hoạt động khoa học thường ngày của nhà bác học lừng danh thế giới đặt câu hỏi : « Hawking » thực sự là nhà nghiên cứu lớn hay chỉ là sản phẩm của những phần cơ thể và tinh thần nối dài mà ông «điều hành» ?

    Không thể làm toán, vì tay liệt, Stephan Hawking chỉ còn cách duy nhất để tiếp tục con đường nghiên cứu vật lý thiên văn, đó là sử dụng các đồ hình (diagramme), mà sự thể hiện đơn giản hơn nhiều so với làm tính, nhưng lại không kém phần hiệu quả. Sự chuyển hướng nghiên cứu để thích nghi với tình trạng bệnh tật này được nhiều nhà nghiên cứu ca ngợi như một quyết định hết sức thông minh và dũng cảm. Tuy nhiên, Hawking cũng không thể trực tiếp vẽ được các đồ hình. Kết quả là các nghiên cứu sinh của ông đã làm toàn bộ công việc tính toán và vẽ. Bản thân Stephen Hawking đã học hỏi được rất nhiều từ các sinh viên của ông.

    Đâu là đóng góp thực của Hawking ?

    Trả lời RFI về vai trò của Stephen Hawking trong các phát kiến khoa học, nhà vật lý Jean-Marc Lévy-Leblond nhận xét :

    «Trên thực tế, có hẳn một tập đoàn (khoa học) Hawking. Xung quanh ông ta có cả một cỗ máy xã hội không thể tin được, với các y tá, các nhà truyền thông… Không thể nói đây là một tập đoàn vụ lợi có mưu đồ quyền lực. Huyền thoại tự nổi lên. Rồi một khi đã phát triển rồi, thì nó phát tán và tự phát triển.

    Rõ ràng là hiện nay, người ta cần đến những huyền thoại như vậy, không chỉ trong khoa học, mà trong mọi lãnh vực. Hình tượng Einstein đã đóng vai trò như vậy trong một thời gian dài, hiện nay đã mất đi phần nào sức hấp dẫn. Hiện nay, người ta có xu hướng nhận ra ông ấy dù là thật tuyệt vời, nhưng cũng chỉ là một người bình thường như mọi người khác, với các giới hạn, khuyết điểm, thậm chí thói tật. Và như vậy người ta cần đến một hình tượng hiện đại hơn. Người ta lại càng cần hơn đến một huyền thoại cá nhân, khi mà thực tế lao động khoa học cụ thể ngày càng ít tương ứng với các hoạt động cá nhân hơn là một hiện thực mang tính tập thể trên quy mô lớn. Ví dụ như việc phát hiện ra hạt Higgs đã cần đến sự tham gia của cả ngàn nhà nghiên cứu, con số lớn hơn rất nhiều so với điều ta tưởng. Những huyền thoại như Einstein trước kia, hay Hawking hiện nay phần nào có thể ví với hiện tượng cái cây cá nhân che lấp khu rừng tập thể».

    Về nhận định này, nhà xã hội học Hélène Mialet cho rằng có một sự giằng co giữa vai trò cá nhân với tập thể, đây chính là điều bà muốn làm nổi rõ trong cuốn sách. Điều mà tác giả quan tâm thông qua nghiên cứu về tập thể Hawking chính là tìm cách để trả lời cho câu hỏi : những nhà khoa học hiện đại tạo ra « sự thật (khoa học) » như thế nào ?

    Điều có thể rút ra từ một nghiên cứu như thế này là ngược hẳn với quan niệm thông thường cho rằng một cá nhân đơn độc có thể làm được công việc khai mở các quy luật bí ẩn của vũ trụ. Thông qua trường hợp Hawking, có thể thấy một điều thú vị là, không phải vì Hawking không có một cơ thể bình thường, mà tất cả được coi là đến từ cái đầu của ông. Ngược lại, chính vì không có được một cơ thể bình thường, mà ông đã ủy nhiệm toàn bộ công việc cho xung quanh, cho máy móc, cho các nhân viên, sinh viên…Chính vì thế mà chúng ta thấy được rõ ràng hơn những gì được thực hiện nhân danh Hawking, do những «cánh tay», «cơ thể nối dài» của ông, khiến ông có thể làm được muôn việc, suy nghĩ, viết lách, thuyết trình…

    Truyền thông đẻ ra huyền thoại

    Cũng trong công trình nghiên cứu nói trên, nhà xã hội học đã dành một chương để mô tả việc truyền thông, báo chí và điện ảnh, hợp sức quảng bá cho hình ảnh của Stephen Hawking - một «nhà khoa học hoàn hảo », một « bộ não của tư duy thuần túy », « không giọng nói », « một cỗ máy », « một thiên thần», bằng cách gạt hẳn sang một bên các hoạt động cộng tác, hỗ trợ với sinh viên, với nhân viên, mà thiếu chúng, Hawking đã không thể thành công, đặc biệt sau khi ông trở thành nạn nhân của một căn bệnh hết sức hiểm nghèo, như chúng ta biết ở phần trên.

    Trong khi nhiều nhà chuyên môn cho rằng, không có lý gì để tôn sùng Stephen Hawking đến mức như một thiên tài, như người kế tục Newton hay Einstein, khi các lý thuyết của ông chưa hề được kiểm chứng bằng thực tế, thì trạng thái bệnh tật của Hawking đã được truyền thông «khai thác như một lợi thế », « như nguồn gốc của sự sáng tạo và năng lực làm việc phi thường». Được giải phóng khỏi những quan tâm đời thường và trần thế, nhà khoa học có thể hiến mình hoàn toàn cho tư duy. Người ta so sánh Hawking với một Mozart soạn giao hưởng trong đầu, một phóng viên thêm vào nhận xét «ai từng thấy những đường đẳng thức toán học phức tạp phủ lên tấm bảng đen như một bản nhạc, sẽ cảm nhận được so sánh này». Người ta hình dung trong đầu Hawking là tất cả những bộ não lớn nhất hợp lại, trên nền của một thân thể nhỏ xíu, gần như không tồn tại. Đôi mắt của ông trở thành biểu tượng của chính thiên tài của ông. Đẩy xa hơn nữa, truyền thông ví ông với một «lỗ đen», đối tượng nghiên cứu của nhà khoa học, khi cho rằng chính Hawking đã cảm nhận được sự giãn ra của thời gian. Nhiều tâm sự, chia sẻ trước kia của Hawking bị cắt gọt để chỉ còn lại những phần nào có thể làm nên sự tôn vinh hết mực hình ảnh của nhà khoa học tài năng tật nguyền.

    Hawking : Khi tỏ, khi mờ

    Một trong những phần mang lại một cảm giác lạ lùng trong cuốn «Đi tìm Hawking» của nhà xã hội học Pháp nói về cuộc làm việc trực tiếp với Hawking, mà Hélène Mialet phải chờ đợi hai năm mới thực hiện được. Cuộc gặp gỡ đã mang lại cho nhà nghiên cứu một cảm nhận bất ngờ : càng xa nhân vật, hình ảnh về ông trong trí tưởng tượng càng rõ nét (như những gì mà các phương tiện truyền thông xây dựng), thì khi có cơ hội được tiếp cận ông thực sự, hình ảnh về ông trở nên mờ đi : một con người tàn tật bằng xương bằng thịt, khuôn mặt gần như bất động, cuộc «đối thoại» kéo dài đến mức khó tin, mọi đối thoại với khách đều thông qua một tiếng nói nhân tạo đưa người đối diện vào trạng thái phân thân, bất cứ trục trặc nhỏ nào của hệ thống máy móc cũng gây khó khăn, bất cứ bất ổn nào trên cơ thể cũng cần sự can thiệp của các y tá, nhân viên…

    Cuốn khảo cứu của nhà xã hội học Pháp về huyền thoại vật lý thiên văn học Anh không làm công việc lật đổ huyền thoại, như bà nhiều lần khẳng định. Mục tiêu thuật dựng những gì diễn ra trong các hoạt động khoa học hàng ngày của Hawking cùng các cộng sự lột tả các nỗ lực xây dựng một huyền thoại Hawking, từ phía truyền thông và từ chính nhà khoa học, của Hélène Mialet không nhằm hạ bệ thần tượng (như chỉ trích của dư luận nhiều nơi, đặc biệt ở nước Anh), mà quan trọng hơn là thông qua việc tìm hiểu những gì thực sự diễn ra trong tập thể Hawking, mà soi tỏ đời sống của một cộng đồng khoa học đương đại. Trong hoạt động khoa học, bên cạnh những công việc mà ở đó phương tiện và công cụ, sự hỗ trợ và cộng tác của cả một tập thể hay các mạng lưới rộng lớn là điều tối quan trọng, nhà khoa học tiên phong nào chẳng phải đối diện với nỗi cô đơn, với thế giới tưởng tượng của chính mình ? Cuối cuốn sách, rất nhiều bí ẩn liên quan đến nhà khoa học tài năng tàn tật kiên cường theo đuổi mục tiêu đến cùng, cùng với «công ty» của ông và những nghiệp vụ quảng bá thần tượng, đã được vén mở, nhưng rất nhiều bí ẩn khác vẫn còn nguyên. Chia tay với độc giả, sau khi để trí tưởng tượng đón trước ngày Hawking qua đời, những di vật của nhà bác học đều có nơi có chốn, nhà xã hội học một lần nữa thốt lên : «ta không thể ngăn mình sửng sốt : hỡi Hawking, ông đang ở đâu ?».

    Trong một cuộc tọa đàm do đài France Culture tổ chức đầu tháng 7 (trong chương trình mang tên « Lao động khoa học là gì ? Trường hợp Hawking »), với sự tham gia của tác giả cuốn «Đi tìm Stephen Hawking», hai nhà thiên văn học Pháp Marc Lachieze Rey và André Brahic (không kể những nhìn nhận riêng của mỗi người về chuyên môn) cùng chia sẻ niềm ngưỡng mộ trước người đồng nghiệp tàn tật, con người đầy cá tính, quyết theo đuổi khát vọng làm khoa học đến cùng, cũng như quyết định chuyển hướng kịp thời của ông. Nhắc đến Hawking, một nhà khoa học dấn thân, hay huyền thoại về ông, cũng là dịp để nhắc đến truyền thống khoa học đích thực xuyên qua các thời đại, dịp để đối diện với những thói tật của nền khoa học đương đại, những hạn chế cần vượt qua để đưa ánh sáng khoa học đến nhiều hơn với xã hội.

    ---

    Hélène Mialet, tác giả cuốn «A la recherche de Stephen Hawking» (Đi tìm con người Stephen Hawking) (nxb Odile Jacob, 2014) (bản gốc tiếng Anh : «Hawking Incorporated: Stephen Hawking and the Anthropology of the Knowing Subject», 2012) từng làm việc tại Viện Pasteur, đại học Cambridge, đại học Oxford, viện Max Planck Berlin và đại học Cornell New York, rồi Harvard. Hiện tại, Hélène Mialet giảng dạy tại khoa Sciences Studies, đại học California, Berkeley. Tác giả cuốn «Đi tìm con người Stephen Hawking» được đào tạo về xã hội học, triết học và nhân học. Đối tượng nghiên cứu chính của bà là sáng tạo khoa học, mối quan hệ con người- máy móc.​

    [/TD][/TR][/TABLE]

    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Trailer[/TD][/TR]
    [TR][TD=bgcolor: #FFFFCC]

    [video=youtube;gQu9Jm-wV24]http://www.youtube.com/watch?v=gQu9Jm-wV24[/video]​


    [/TD][/TR][/TABLE]

    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Media Info[/TD][/TR]
    [TR][TD=bgcolor: #FFFFCC]

    General
    Format : Matroska
    File size : 3.27 GiB
    Duration : 43mn 3s
    Overall bit rate : 10.9 Mbps

    Video
    Format : AVC
    Bit rate : 10.4 Mbps
    Width : 1 920 pixels
    Height : 1 080 pixels
    Display aspect ratio : 16:9
    Frame rate : 25.000 fps

    Audio
    Format : AC-3
    Bit rate : 448 Kbps
    Channel(s) : 6 channels
    Sampling rate : 48.0 KHz
    Language: English


    [/TD][/TR][/TABLE]

    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Screenshots[/TD][/TR][/TABLE]

    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG]


    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Link download[/TD][/TR]
    [TR][TD=align: center, bgcolor: #FFFFCC]

    Dung lượng: 9.8 GiB (1 link)

    [​IMG]
    Nhấn nút Cảm ơn (dưới chân bài) để thấy link!



    [/TD][/TR][/TABLE]

    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Phụ đề[/TD][/TR][TR][TD=align: center, bgcolor: #FFFFCC]

    (đã có bản tiếng Việt)
    http://subscene.com/subtitles/stephen-hawkings-grand-design


    [/TD][/TR][/TABLE]

    [TABLE=align: center, width: 700][TR][TD=bgcolor: RoyalBlue, align:center]Các bản encode của phim[/TD][/TR][TR][TD=bgcolor: #FFFFCC]

    1080p:
    Stephen Hawking's Grand Design 2012 1080p BluRay x264-WaLMaRT - {9.8 GiB} Fshare [​IMG]


    [/TD][/TR][/TABLE]

     
    Chỉnh sửa cuối: 23/12/15
  2. bokinhvan113

    bokinhvan113 New Member

    Tham gia ngày:
    7/9/12
    Bài viết:
    158
    Đã được cảm ơn:
    8
    cái này k có sup việt ah bác
     
  3. nhatquang_fx

    nhatquang_fx Active Member

    Tham gia ngày:
    30/5/09
    Bài viết:
    96
    Đã được cảm ơn:
    56
    Ðề: Re: [Tài liệu] Stephen Hawking's Grand Design 2012 1080p BluRay x264 | D-ZON3 | DON | VietHD ~ Siêu Phác Thảo Của Stephen Hawking: Thượng Đế Tạo Ra Vũ Trụ? | Benedict Cumberbatch, Stephen Hawking, Funke Adeleke

    Trên đây thấy có tới 2 cái sub là thế nào nhỉ?
    http://subscene.com/subtitles/stephen-hawkings-grand-design
     
  4. v0minh

    v0minh Well-Known Member

    Tham gia ngày:
    23/12/14
    Bài viết:
    19,418
    Đã được cảm ơn:
    213,205
    Giới tính:
    Nam
    Nghề nghiệp:
    Blogger
    Nơi ở:
    Hải Phòng
    Ðề: Re: [Tài liệu] Stephen Hawking's Grand Design 2012 1080p BluRay x264 | D-ZON3 | DON | VietHD ~ Siêu Phác Thảo Của Stephen Hawking: Thượng Đế Tạo Ra Vũ Trụ? | Benedict Cumberbatch, Stephen Hawking, Funke Adeleke

    Bạn nào check thử xem sao, có lẽ khớp đấy vì có comment phản hồi ở cả hai.
     
  5. 982486

    982486 Active Member

    Tham gia ngày:
    25/5/11
    Bài viết:
    116
    Đã được cảm ơn:
    56
    cái này có 3 tập lận.
     
    ganhhanghoa cảm ơn bài này.

Chia sẻ trang này