Topic này nhằm giới thiệu Jidai-geki, thể loại phim ảnh đặc chủng và đậm chất Nhật Bản cũng như link download một số bộ phim thuộc thể loại này đã được phụ đề Việt ngữ. Bài viết này được dịch từ trang Wikipedia Japan Wikipedia Japan Mở đầu Jidai-geki (thời đại kịch) là một thể loại phim điện ảnh, phim truyền hình hay kịch nói với bối cảnh là các thời kỳ trước cuộc Duy Tân Meiji (Minh Trị), trước thời Edo hoặc các thời kỳ trước đó trong lịch sử Nhật Bản. Từ "kịch" (geki) trong "thời đại kịch" không chỉ mang nghĩa là diễn kịch mà còn để chỉ phim điện ảnh, phim truyền hình. Thời đại kịch là một thể loại lớn trong phim điện ảnh, phim truyền hình hay kịch nói tại Nhật, đối lập với "hiện đại kịch" (Gendai-geki) với bối cảnh là xã hội đương đại. Thể loại này cùng với tiểu thuyết thời đại (Jidai-shōsetsu) còn được gọi chung là "Mage-mono" hay "Chonmage-mono", trong đó Mage hay Chonmage là kiểu tóc đặc trưng của tầng lớp Samurai trong thời đại cũ và cũng là hình ảnh tượng trưng cho tầng lớp này. Trong Jidai-geki, có loại kịch nói, phim ảnh với những cảnh đấu kiếm cao trào còn được gọi là Chambara (Chanbara). Danh xưng này bắt nguồn từ từ tượng thanh "chanchan barabara" mô tả tiếng đao kiếm va chạm nhau trong phim. Như vậy, Chambara là một phân nhánh nhỏ của Jidai-geki, trong đó Jidai-geki có thể hiểu nôm na là phim, kịch "cổ trang" đặc thù của nước Nhật, còn Chambara là phim, kịch với những màn đấu kiếm là cao trào của bộ phim, vở kịch, hay có thể hiểu nôm na là phim, kịch "kiếm hiệp". Jidai-geki, Chambara thường được dịch sang Anh ngữ là "Samurai drama". Nói theo nghĩa rộng thì các bộ phim Ninja cũng được xếp vào thể loại Jidai-geki, nhưng thường là được phân chia rạch ròi. Chỉ những bộ phim với đề tài là các Ninja nổi tiếng (không phân biệt hư cấu hay nhân vật lịch sử) trong thời Chiến quốc (Sengoku) và Edo mới được xếp vào hàng Jidai-geki. Khái yếu Jidai-geki là một thể loại lớn trong ngành công nghiệp giải trí Nhật Bản, hằng năm có rất nhiều bộ phim điện ảnh, truyền hình thuộc thể loại này được chế tác. Trong số đó, phổ biến là các tác phẩm với bối cảnh từ thời Heian cho đến thời Duy Tân Meiji, và đặc biệt là tập trung vào thời Edo. Thời kỳ Edo là một dấu son trong lịch sử Nhật Bản với rất nhiều thành tựu về văn hóa, nghệ thuật, mỹ thuật cũng như võ nghệ, kiếm pháp với vô số kiếm sĩ lừng danh. Vì vậy nên thời kỳ Edo trở thành một đề tài khai thác lớn của Jidai-geki và có rất nhiều phim trường được dựng lên với để phục vụ mục đích quay những bộ phim với bối cảnh thuộc thời kỳ lịch sử này. Tuy phim ảnh với bối cảnh lịch sử trước cuộc Duy Tân Meiji, các thời kỳ lịch sử trước đó đều được xếp vào thể loại Jidai-geki nhưng các bộ phim với bối cảnh thời cổ đại, thời Yayoi thì có y phục, đạo cụ và nội dung khác nhiều với các bộ phim Jidai-geki phổ biến (thời Edo). Ngoài ra còn có thể loại phim lịch sử (Rekishi-geki), nhưng phim lịch sử nước Nhật cũng được gọi chung là Jidai-geki còn phim lịch sử của các nước khác thì vẫn gọi là phim lịch sử. Trong cộng đồng các nước nói tiếng Anh, người ta dùng từ "period piece" hay "period drama" để chỉ về thể loại phim lịch sử tương đương với Jidai-geki của Nhật. Còn phim Jidai-geki Nhật Bản với những màn đấu kiếm là trung tâm thì gọi là Jidaigeki. Một cảnh trong phim Kagemusha của đạo diễn lừng danh Kurosawa Akira Trong Jidai-geki thường xuất hiện nhiều nhân vật lịch sử, các sự kiện từng xảy ra trong lịch sử nhưng tất cả đều được tiểu thuyết hóa, được gia công để đại chúng đương đại dễ dàng đón nhận. Các phim Jidai-geki thời kỳ đầu thường mô tả, phản ánh trung thực về sự phân biệt giai cấp, thân phận cũng như phân biệt nam nữ trong xã hội. Tuy nhiên, trong các phim Jidai-geki thời kỳ, người ta nghĩ đến việc làm khác đi để không gây cảm giác xa lạ trong xã hội hiện đại, do đó mới có việc các nhân vật nữ có nhiều chỗ đứng trong câu chuyện và góc nhìn của nhân vật chính cũng được thay đổi để phù hợp với giá trị quan hiện đại. Nguồn gốc Trong số các hình thức diễn kịch sân khấu tại Nhật thì Kabuki là một trong các loại hình có lịch sử phát triển sớm nhất, và các vở kịch Kabuki với nội dung là các sự kiện xảy ra từ thời Edo trở về trước được gọi là Jidai-mono (thời đại vật). Ngày nay, từ Jidai-mono được dùng để chỉ các loại tiểu thuyết, phim ảnh, diễn kịch nói chung với đề tài, bối cảnh từ thời Edo trở về trước. Như đã nói trên, Jidai-geki (thời đại kịch) là một thể loại đặc chủng riêng của Nhật Bản, bao trùm ở các mặt kịch sân khấu, phim điện ảnh và phim truyền hình. Kịch sân khấu bắt đầu từ sau thời Duy Tân Meiji, còn lịch sử của Jidai-geki trong điện ảnh bắt đầu từ sau khi Makino Shōzō, người được mệnh danh là cha đẻ của điện ảnh Nhật Bản, dựng bộ phim Jidai-geki đầu tiên là "trận hợp chiến ở chùa Honnō" (Honnō-ji no kassen) vào năm 1908 (năm Meiji thứ 41), và lịch sử của phim truyền hình bắt đầu từ sau đệ nhị Thế chiến (sau 1945). Vào thời Meiji, từ "tráng sĩ" (sōshi) còn được dùng để chỉ các nhà hoạt động tự do dân quyền. Năm 1888 (Meiji thứ 21) có "tráng sĩ" Sudō Sadanori thuộc đảng tự do khai sinh ra thể loại "kịch tráng sĩ" (Sōshi shibai) ở Ōsaka, sau thể loại này được Kawakami Otojirō phát triển thêm. Từ những năm Meiji 30 (1890) trở về sau, để phân biệt với kịch Kabuki truyền thống, báo giới Nhật Bản gọi Kabuki là "cựu phái kịch" (phái kịch cũ) còn "kịch tráng sĩ" là "tân phái kịch" (phái kịch mới). Đến năm 1906 lại có Hiệp hội văn hóa của Tsubouchi Shōyō và Shimamura Hōgetsu, năm 1909 có nhóm Osanai Kaoru, Ichikawa Danza đới thứ hai gọi hình thức diễn kịch chịu ảnh hưởng của kịch cận đại Âu châu của họ là "tân kịch" nhằm phân biệt với cựu phái (Kabuki) và tân phái (kịch tráng sĩ). Và như vậy, có thể thấy hình thức phân biệt Jidai-geki (thời đại kịch) và Gendai-geki (hiện đại kịch) khởi nguồn từ cách phân biệt từ kịch sân khấu thời Edo. Về mảng điện ảnh, có thể nói trong thời kỳ đầu nó chịu khá nhiều ảnh hưởng từ cựu phái kịch (Kabuki). Thời Makino Shōzō còn làm việc cho hãng phim Yokota Shōkai ở Kyōto thì các vai nữ trong phim của ông đều do các diễn viên nam gọi là "onna-gata" đảm nhiệm. Mãi cho đến năm 1919 (Taishō thứ 8) thì đạo diễn Kaeriyama Norimasa mới áp dụng nhiều yếu tố của tân kịch vào điện ảnh với bộ phim "cô gái miền sơn cước" (miyama no otome) và khi Osanai Kaori được hãng Shōchiku Cinema mời về làm đạo diễn thì điện ảnh mới thoát khỏi tầm ảnh hững của cựu phái kịch. Miyama no otome là bộ phim Nhật đầu tiên có sự xuất hiện của diễn viên nữ đóng vai nữ. Năm 1912 (Taishō thứ 11), hãng phim Yokota Shōkai hợp nhất với ba hãng khác, thành lập nên hãng Nikkatsu. Sau khi thành lập, hãng này vẫn tiếp tục sử dụng các diễn viên nam (onna-gata) cho các vai diễn nữ trong các bộ phim đề tài hiện đại (Gendai-geki) và mãi đến năm 1923, thời kỳ xảy ra vụ đại chấn Kantō thì Nikkatsu mới bắt đầu sản xuất Gendai-geki với các yếu tố tân kịch. Lúc đó, tên của hãng cũng phân làm hai, là "Nikkatsu kyū gekibu" (bộ phận cựu kịch Nikkatsu) chuyên làm phim Jidai-geki và "Nikkatsu shin gekibu" (bộ phận tân kịch Nikkatsu) chuyên sản xuất Gendai-geki. Tại Tōkyō thì có hãng phim Kokusai Katsuei (gọi tắt là Kokkatsu) ở Sugamo cũng từng có thời kỳ chuyên sản xuất Jidai-geki, nhưng sau phá sản vì trào lưu tân kịch trong điện ảnh ngày càng được ưa chuộng nên nhân sự của họ bỏ về Kyōto. Đó là lý do vì sao các diễn viên, đạo diễn Jidai-geki phần lớn ở Kyōto còn những người làm Gendai-geki lại sống ở Tōkyō. Cũng cần nói thêm rằng ngôi sao Jidai-geki đầu tiên là Onoe Matsu-no-suke. Ông từng đóng vai chính qua hơn 1000 bộ phim như Mito Kōmon, Araki Mata-uemon, Chūshin-gura,... Từ năm 1920 Năm 1917, Sawada Shōjirō, vốn xuất thân từ tân kịch, đứng lên thành lập "Tân quốc kịch" (Shinkoku-geki) vốn là trung gian giữa cựu phái kịch, tân phái kịch và tân kịch, lại áp dụng những màn đấu kiếm trong Kabuki và hướng tới đại chúng. Tân quốc kịch được đại chúng đón nhận nồng nhiệt, và hai tựa kịch ăn khách của họ thời đó là "Tsukigata Hampeita" và "Kunisada Chūji" rất được yêu thích và sau được dựng thành phim. Khoảng thời gian này, đạo diễn Makino Shōzō tách rời khỏi hãng phim Nikkatsu để hoạt động độc lập, lập hãng riêng là "sở đào tạo chế tác phim ảnh Makino", sau đổi tên thành Makino Production và đào tạo ra các ngôi sao như Bantō Tsuma-saburō, Arashi Kanjūrō, Tsukigata Ryū-no-suke và Kataoka Chiezō. Những người này sau lại đứng ra thành lập Bantō Tsuma-saburō Production và đào tạo ra hàng loạt những ngôi sao Jidai-geki khác. Bantō Tsuma-saburō cũng là người đầu tiên lập khu quay phim ở Uzumasa-mura, khu ngoại ô ở Kyōto và ngày nay là khu quay phim của hãng Tōei. Từ giữa thập niên 1930 trở đi, nhờ kỹ thuật Talkie (đồng bộ hình ảnh và âm thanh) mà các rạp chiếu Jidai-geki cũng không còn sử dụng người đứng lồng tiếng sống cho phim nữa mà bộ phim đã có được tích hợp sẵn tiếng nói của diễn viên cũng như âm nhạc. Thời kỳ này còn thấy có phim Jidai-geki âm nhạc của đạo diễn Makino Masahiro là "trận ca chiến giữa uyên và ương" (Oshidora uta kassen). Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một lượng đạo diễn, diễn viên và khách xem tâm huyết với Jidai-geki câm, năm 1935 (Shōwa thứ 10) hãng phim Gokutō-eiga được thành lập ở thành phố Nishi-miya tỉnh Hyōgo và hãng Ichikawa Uta-emon Production ra đời ở tỉnh Nara. Hai hãng phim này đã sản xuất ra rất nhiều phim Jidai-geki câm cho đến khi giải tán. Từ năm 1945 trở về sau Kể từ sau chiến tranh Thái Bình Dương, Nhật Bản đầu hàng và đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của tổng bộ tư lệnh tối cao Liên hợp quốc (GHQ). Dưới chính sách của phe chiếm đóng, những bộ phim vung đao múa kiếm (Jidai-geki, Chambara) bị xem là mang nặng tinh thần chủ nghĩa quân phiệt, những bộ phim tán thán chuyện báo thù của các Samurai bị cho là yếu tố gây nên lòng căm hận với Hoa Kỳ nên thể loại này bị cấm sản xuất trong một thời gian. Vào thời kỳ, chỉ những loại tiểu thuyết và phim ảnh được gọi là "Torimono-chō" với đề tài là điều tra, bắt bớ tội phạm của các vị quan giữ trật tự trị an thời Edo là được phép chấp bút và công chiếu. Năm 1953, truyền hình Nhật Bản bắt đầu phát sóng và cũng cùng lúc đó, Jidai-geki chiếu trên truyền hình cũng bắt đầu được sản xuất. Năm 1963, đài truyền hình lớn nhất Nhật Bản là NHK bắt đầu phát sóng loạt phim Jidai-geki dài kỳ kéo dài cho đến hiện giờ là Taiga Drama. Kể từ đó, rất nhiều Jidai-geki được sản xuất cho đến ngày nay. Một cảnh trong bộ Jidai-geki chiếu trên truyền hình là Kurama Tengu Trong bối cảnh các chương trình TV khác chuyển đổi sang dạng quay video thì Jidai-geki chiếu trên truyền hình vẫn chủ đạo với lối quay phim nhựa mãi cho đến nửa sau của thập niên 1990, và nó chiếm được một vị trí nhất định với nội dung mang hơi hướng của phim chiếu rạp nhiều hơn là phim truyền hình. Đây là một đặc điểm của Jidai-geki truyền hình và các loại phim thám tử, điều tra tội phạm và loạt phim Tokusatsu với các siêu nhân, người hùng. Từ năm 1990 trở về sau Đến những năm 1990 (thời Heisei) cùng với sự xuất hiện của thể loại phim truyền hình Trendy drama với đề tài chủ đạo là tình yêu nam nữ và những vấn đề trong xã hội đương đại thì Jidai-geki trở nên khó tiếp nhận hơn đối với tầng lớp xem đài trẻ tuổi. So với Gendai-geki thì việc dàn dựng Jidai-geki tốn kém hơn rất nhiều (khảo chứng lịch sử, kinh phí dẫn dụng tư liệu, tiền chế tác đạo cụ, phục trang, hóa trang...) và cảnh quan bị hủy hoại cùng với sự phát triển của xã hội nên rất khó bảo tồn các địa điểm quay phim cho đúng với bối cảnh các thời đại cũ. Ngoài ra việc thiếu vắng tầng lớp kế thừa trong đội ngũ sản xuất, đào tạo người không đủ và các tác phẩm đi vào lối mòn sáo rỗng nên Jidai-geki trên TV không còn được ưa chuộng, việc sản xuất và phát sóng thường bị lãng tránh. Tuy nhiên, nhu cầu về Jidai-geki chiếu rạp trong thời kỳ này lại khá cao nên các tác phẩm này cho đến giờ vẫn được các chương trình phát sóng lại có thu phí và mảng phân phối DVD, Video ưa chuộng. Từ năm 2010 trở lại đây Khuynh hướng chế tác Jidai-geki dành cho TV vẫn ngày càng giảm. Ngày 19 tháng 12 năm 2011, loạt Jidai-geki chiếu vào 8h tối thứ hai hàng tuần trên đài TBS là Mito Kōmon đã công chiếu tập cuối, kết thúc một chặng đường dài 42 năm lịch sử. Đến năm 2010, Jidai-geki chiếu trên truyền hình đứt mạch hẳn với sự kết thúc của phim "Orin, kẻ đào tẩu 2" (Nogare-mono Orin 2) và phim "Ō-oku tanjō. Arikoto, Iemitsu hen". Trong bối cảnh Jidai-geki lâm nguy như vậy, đài phát sóng qua vệ tinh có thu phí là Sky Premium Service phối hợp với sở phát sóng phim ảnh Nhật Bản qua vệ tinh (Nihon Eiga Eisei Hōsō) bắt đầu phát sóng bộ Jidai-geki mới sản xuất là Onihei Gaiden Yōsagi no Kakuemon vào Tết năm 2011 và bộ phim đã được đón nhận nồng nhiệt, đến tháng 2 năm 2012 thì dự án này lại bắt đầu với bộ phim Onihei Gaiden Kumagorō no kao. Những người sản xuất cũng nói lên quan điểm của mình từ góc nhìn kỹ thuật chế tác, nguy cơ "tuyệt chủng" của văn hóa, kỹ thuật điện ảnh độc đáo của Nhật Bản nên liên đoàn nhân viên làm việc ở điểm quay phim hãng Tōei tại Kyōto đã đứng lên thành lập "hội ủy viên phục hưng Jidai-geki", các diễn viên Jidai-geki không mấy tiếng tăm cũng biểu diễn những pha đấu kiếm, hành động ở làng điện ảnh Uzumasa (Kyōto) nhằm thu hút công chúng cũng như tìm đường sống cho Jidai-geki. Về phần Jidai-geki chiếu rạp thì từ khoảng giữa thập niên 2000 trở về sau tuy số lượng sản xuất có ít hơn trước đó nhưng có khuynh hướng tăng dần dù không đáng kể. Các tác phẩm Jidai-geki mới cũng chuyển dần địa bàn từ truyền hình sang chiếu rạp. Năm 2010, 5 hãng phim Nhật hợp tác với nhau để tiến hành "chiến dịch phim Samurai" (Samurai Cinema Campaign), đồng thời điểm đó cũng có 5 phim chiếu rạp được công chiếu để quảng bá cho Jidai-geki là "13 thích khách" (Jūsan-nin no shikaku), "biến cố ngoài cổng thành Sakurada" (Sakurada mongai no hen), Raiō, "sổ chi tiêu của Võ sĩ" (Bushi no kakei-bo) và "47 Samurai cuối cùng" (Saigo no Chūshin-gura). Như vậy, các nhà làm phim cũng đang tỏ ra rất cố gắng để khơi dậy lòng ham thích của thế hệ trung niên vốn là những khán giả trung tâm của Jidai-geki và họ cũng đang ra sức bảo vệ Jidai-geki, một phần của văn hóa Nhật Bản ở mọi phương diện. Khảo chứng thời đại Về mặt khảo chứng thời đại thì thông thường, hầu hết các tác phẩm Jidai-geki đều có những nhà chuyên môn, cố vấn về mặt lịch sử nhưng càng về sau này, do nhiều lý do nên mảng khảo chứng ngày càng bị lược bỏ, số chi tiết sai biệt với thời đại ngày càng tăng và điều này cũng không phải ngoại lệ đối với các tác phẩm mang đậm tính văn học. Từ trước năm 1960, các diễn viên Jidai-geki phần nhiều đều nhuộm răng đen và cạo lông mày theo đúng thẩm mỹ thời cổ, nhưng hai tục này đều đã bị cấm chỉ sau thời Meiji và cũng có nhiều ý kiến cho rằng gu thẩm mỹ này nhìn ghê rợn, không hợp với người hiện đại nên việc nhuộm răng đen và cạo lông mày chỉ thấy có ở một số vai diễn đặc thù trong Jidai-geki ngày nay mà thôi. Đồ lót của nam giới Nhật Bản thời cổ vốn là quấn khố nhưng nó đã trở thành một kiểu quần lửng gọi là Sarumata trong các bộ phim Jidai-geki sau này, và còn nhiều yếu tố tạp nhạp khác chẳng hạn như đầu tóc và trang phục của diễn viên là thời Bakumatsu trong khi bối cảnh của câu chuyện lại là thời Genroku. Ngoài ra, y phục của các nhân vật quan lại, người hầu cũng như nhà ở, kiến trúc cũng đang bị lược bỏ nhiều yếu tố khảo chứng thời đại. Một cảnh trong phim Samurai Fiction, tuy thuộc thể loại Jidai-geki nhưng mang nhiều yếu tố SF Về phần đánh kiếm, kỹ thuật rút kiếm nhanh đặc thù của Nhật Bản (Battō) từ lúc rút ra khỏi vỏ, chém và thu kiếm đều không gây ra tiếng động nào, và lúc đầu người ta cũng không làm tiếng cho những cảnh này, nhưng từ năm 1960 trở đi, nhà sản xuất dần dần đưa thêm hiệu ứng âm thanh vào những cảnh rút kiếm cùng với sự xuất hiện của hai bộ phim Yōjimbō (vệ sĩ) và Sambiki no Samurai (3 tên Samurai). Cảnh sai biệt nhất về mặt khảo chứng lịch sử thường thấy trong Jidai-geki là cảnh cưỡi ngựa. Thực tế, từ thời Edo trở về trước, Nhật Bản hầu như không có những giống ngựa lai tạo ở Tây Âu như Thoroughbred hay Quarter horse với chiều cao trên 160cm, vốn là những dòng ngựa chủ đạo để cưỡi ngày nay. Nói một cách nghiêm ngặt về mặt khảo chứng thời đại thì ngựa thuần chủng Nhật Bản vốn chỉ cao chừng 130~135 cm, nhưng thể cách của người Nhật ngày càng to lớn nên diễn viên trông sẽ không hợp với con ngựa, và số lượng ngựa thuần chủng Nhật Bản cũng ít hơn ngựa để cưỡi thông thường. Chính vì lẽ đó mà ngay cả Kurosawa Akira, đạo diễn nổi tiếng nghiêm ngặt về mặt khảo chứng lịch sử vẫn phải sử dụng ngựa Tây Âu cho các cảnh quay của mình. Các vật dụng hàng ngày như đồ gốm sứ, đồ sơn mài trong Jidai-geki là các đồ vật đương thời hoặc được các nghệ nhân hiện đại sản xuất bằng thủ pháp đương thời, nhưng để phục vụ mục đích quay phim mà phải sản xuất ra những đồ vật với thủ pháp đúng thời đại và với một số lượng hạn chế như vậy cũng gây khó khăn nhiều cho ngân sách. Vì vậy nên người ta vẫn tái hiện đạo cụ với thủ pháp thời Edo hoặc gần với thời đại này để phục vụ mục đích quay phim, điều này dẫn đến nhiều sai lệch so với bối cảnh thời đại của bộ phim với tính nghệ thuật, tinh xảo, biểu hiện của những đồ vật đó. Phân loại Phân loại theo hình thái biểu diễn + Kịch nói, kịch sân khấu, Kabuki, Kiếm kịch (Kengeki) + Jidai-geki chiếu rạp + Jidai-geki truyền hình Phân loại theo nội dung, định hình + Kiếm kịch (Kengeki), tức phim đấu kiếm, Chambara Jidai-geki: chủ yếu xoay quanh các màn đấu kiếm (Nhật) và thể loại này chiếm đa số trong Jidai-geki, nặng về tính giải trí hơn là yếu tố văn học. Gendai-geki chiếu trên truyền hình có những cảnh dùng đao kiếm sát thương con người thì bị phê phán là bạo lực, làm gia tăng tính tội phạm trong người xem, nhưng những màn đấu kiếm trong Jidai-geki được thể hiện như những động tác mang tính hình thức, một kiểu hiểu ngầm giữa nhà sản xuất với người xem nên dù có những cảnh chém giết số đông trong một khoảng thời gian rất ngắn vẫn không bị liệt vào đối tượng chỉ trích. Trong thể loại này lại chia thành các mảng nhỏ sau * Mảng với đề tài kiếm thuật, Võ sĩ đạo, trung nghĩa * Mảng với đề tài hành hiệp giang hồ (Matatabi, Ninkyō) * Mảng với đề tài khuyến thiện trừng ác, điều tra bắt giữ tội phạm (Torimono-chō). Đây là mảng chủ lưu trong thể loại Jidai-geki chiếu trên truyền hình. Đối với trường hợp phe ác là chúa phiên hay các trọng thần của chúa thì thường là những nhân vật hư cấu, địa danh hư cấu, riêng trường hợp series Mito Kōmon thì sử dụng địa danh thực và không tránh né những trường hợp vai ác là người của chính quyền. Trong mảng này lại chia thành các đề tài nhỏ về các vị Tướng quân (Shōgun), các vị quan Bugyō, lực lượng giữ trật tự trị an thì Edo và đề tài về các nghĩa tặc. Một series nổi tiếng trong mảng này là Onihei Hankachō (sổ điều tra tội phạm của quỷ Bình), ngoài yếu tố khuyến thiện trừng ác đặc trưng, nó còn mang đậm tính văn nghệ, đặt nặng miêu tả tính con người cũng như phong cảnh, phong tục tập quán thời Edo. * Mảng với đề tài hợp chiến: bối cảnh là thời Chiến quốc (Sengoku), miêu tả sự hưng vong, phồn vinh, suy thoái của các lãnh chúa địa phương (Daimyō). Điển hình có thể kể đến phim Kagemusha của đạo diễn Kurosawa Akira, loạt Taiga Drama của đài NHK, Seki-ga-hara của đài TBS. + Loại văn nghệ: dựng từ tiểu thuyết, các tác phẩm văn học (trừ Kiếm kịch). Có thể kể ra các mảng chính trong thể loại Jidai-geki này gồm * Văn học thời Edo được dựng thành phim: Saikaku Ichidai onna (một đời nữ nhân Saikaku), Chikamatsu monogatari (chuyện kể Chikamatsu), Saikaku ichidai otoko (một đời nam nhi Saikaku). Đa số là phim của hãng Daiei. * Mảng về sinh hoạt thành thị thời Edo, tiêu biểu là Hiemeshi to osan to chan của hãng Tōei. * Mảng với bối cảnh thời đại khác với thời Edo: gồm có Genji-monogatari, Ugetsu-monogatari, Sanshō Dayū, Koi ya Koi nasuna Koi (bối cảnh thời Heian) * Mảng với đề tài đánh giá, phê phán giá trị quan của Võ sĩ đạo, xã hội Võ gia: đa phần những tác phẩm này đều nhìn nhận dựa trên nền tảng giá trị quan hiện đại, thường có những cảnh đấu kiếm làm cao trào và cũng có những phim mô tả cảnh sát thương tàn khốc như "Seppuku" (mổ bụng), "Samurai Nippon". * Mảng với đề tài là 47 Võ sĩ thành Akō báo thù cho chủ (gọi chung là Chūshin-gura) * Mảng với nữ nhân là nhân vật chính, gồm các loại liên quan đến hậu cung của các Tướng quân (Ō-oku), Sexy Jidai-geki, Prono Jidai-geki * Mảng hoạt kịch (Katsu-geki): loại phim hành động chủ yếu dành cho trẻ con với các người hùng khuyến thiện trừng ác và là mạo đầu cho thể loại Tokusatsu sau này. Những phim đơn cử có thể kể ra là Kurama Tengu (quỷ Thiên cẩu Kurama), Hakuba Dōji (đồng tử bạch mã), Kamen no Ninja Akakage, Henshin Ninja (Ninja biến thân)... * Mảng Jidai-geki hài như Tenamon ya Sando-gasa, Tonma Tengu... * Mảng Jidai-geki sử dụng nhiều yếu tố Tokusatsu, SF, Kaidan (quái đàm) như Shibukawa Hangorō, Daimajin (Đại ma thần)... * Hyper Jidai-geki: thể loại này không coi trọng mặt khảo chứng lịch sử mà bối cảnh, trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán có sự pha trộn với các thể loại khác như SF, phim Cao bồi và nội dung mang tính nghệ thuật tiền vệ (Avant grade). * Mảng Jidai-geki âm nhạc: như Oshidori uta kassen, Operetta Tanuki goten. Một cảnh trong series phim Jidai-geki truyền hình là Hissatsu Shigotonin (tất sát thích khách) đi ngược lại với xu hướng khuyến thiện trừng ác của thể loại này Phân loại theo người sản xuất và phong trào + Makino Jidaigeki: các phim của đạo diễn Makino Shōzō, hay có những cảnh đấu kiếm đẹp mắt, những cảnh diễn tuồng Kabuki và là những phim Jidai-geki đầu tiên của Nhật Bản. + Nonsense Jidaigeki: những phim Jidai-geki trước đệ nhị Thế chiến và đa phần mang tính ba dớ, rẻ tiền, vô căn cứ, không logic. + Tōei Jidai-geki: phim của hãng Tōei (Đông Ánh), từng làm mưa làm gió trong thể loại Jidai-geki sau đệ nhị Thế chiến, đa phần là phim với bối cảnh thời Edo. + Dai-ei Jidai-geki: phim của hãng Dai-ei (Đại Ánh): hãng này không chỉ sản xuất các phim đấu kiếm mà còn có nhiều phim văn nghệ cũng như phim với bối cảnh thời đại ngoài thời Edo. Đặc trưng của hãng này là nặng về tính khảo chứng lịch sử, diễn viên thường nhuộm răng đen và cạo lông mày cho phù hợp với bối cảnh thời đại. + Kurosawa Jidai-geki: các tác phẩm của đạo diễn Kurosawa Akira. Đặc trưng với những cảnh chiến đấu thực tế, câu chuyện giàu tính nhân văn. + Nikkatsu Jidai-geki: các phim của hãng Nikkatsu có đặc trưng là nhiều cảnh hành động, đâm chém máu me cũng như không ít cảnh miêu tả sắc tình trần trụi. + Tōhō Jidai-geki: phim của hãng Tōhō (Đông Bảo) + Shōchiku Jidai-geki: phim của hãng Shōchiku (Tùng Trúc) ít nhiều đều mang đậm tính nhân văn, ấm áp tình người. Một câu nói bất hủ trong phim Yagyū Ichizoku no Inbō Các tác phẩm Jidai-geki chủ yếu Tác phẩm điện ảnh + Isshin Tasuke + Kaidan mono (những phim đề tài ma quỷ) + Kakushiken Oni no tsume + Các phim loại Matatabi (đề tài hiệp khách giang hồ) + Series Kurama Tengu + Series Kozure ōkami (Sói mang con) + Goyōkin + Sambiki no Samurai + Shichinin no Samurai + Series Zatōichi + Series Shinobi no mono + Jūsan-nin no shikaku + Shōgun Iemitsu no ranshin Gekitotsu + Shiranui Kengyō + Series Shingo Jūban shōbu + Các tác phẩm liên quan đến Shinsen-gumi + Series Zenigata Heiji + Series Daibosatsu tōge + Tasogare Seibei + Series Tange Sazen + Các tác phẩm Chūshin-gura + Series Tōyama no Kin-san + Series Nemuri Kyōshirō + Series Hatamoto Taikutsu otoko + Series Hissatsu + Hitokiri + Bushidō Blade + Bushi no kakei-bo + Bushi no Ichibun + Makai Tenshō + Series Mito Kōmon + Các tác phẩm về Miyamoto Musashi + Yagyū Ichizoko no Inbō + Yōjimbō + Ryōma wo kitta otoko + Rōnin-gai Tác phẩm truyền hình + Akazukin Kaitō rambu (NHK) + Aketsuki ni kiru! (Kansai Terebi) + Akō Rōshi (NHK, 1964): bộ Taiga Drama có tỷ lệ xem cao nhất trong lịch sử, với 53% + Akutō-gari (Tōkyō 12 channel) + Ōgata Jidai-geki series (Nihon Terebi, 1967-1968) + Appare Yajūrō (NHK, 1966-1967) + Abare Isha Ranzan (Terebi Tōkyō) + Abare Kyūan (Kansai Terebi) + Abare Hasshū Goyō-tabi (Terebi Tōkyō) + Series Abarenbō Shōgun (Terebi Asah, 1978-2003) + Amigasa Jūbei (Fuji Terebi, Terebi Tōkyō) + Ikeda Daisuke torimono nikki (Fuji Terebi) + Izumo no Okuni (NET, 1973; NHK, 2006) + Ukiyo-e Onna nezumi kōzō (Fuji Terebi) + Ude ni oboe ari (NHK) + Umon torimono-chō (NET, Nihon Terebi) + Ejima Ikushima (Tōkyō 12 Channel) + Edo Tokusō shirei (Mainichi hōsō) + Edo Nakamachi Bugyō-sho (Terebi Tōkyō) + Edo no uzu (Fuji Terebi) + Edo no kaze (Fuji Terebi) + Edo no kiba (Terebi Asahi) + Edo no gekitō (Fuji Terebi) + Edo no taka Goyō-beya hankachō (Terebi Asahi) + Edo no Yōjimbō (Fuji Terebi, Nihon Terebi) + Edo wo kiru (TBS, 1973-1994) + Enoken no Mito Kōmon Manyū-ki (Nihon Terebi, 1954) + Ō-edo sōsa-mō (Terebi Tōkyō, 1970) + Ō-edo bengo-nin hashiru! (Terebi Asahi) + Ō-edo wo kakeru! (TBS) + Ō-oka Echizen (TBS, 1970-2006) + Ō-oku (1968, Kansai Terebi) + Ō-oku (1983, Kansai Terebi) + Ō-oku (2003, Fuji Terebi) + Ōkami Burai hikae (Mainichi Hōsō) + Ōsaka-jō no onna (Kansai Terebi) + Okappiki Dobu (Fuji Terebi) + Oshi-zamurai Kiichi Hōgan (Nihon Terebi) + Oshidori Ukyō torimono-guruma (Mainichi Hōsō) + Otasuke Dōshin ga iku! (Terebi Tōkyō) + Onihei Hanka-chō (NET, 1969-1972) + Onihei Hanka-chō (NET, 1975) + Onihei Hanka-chō (Terebi Asahi, 1980-1982) + Onihei Hanka-chō (Fuji Terebi, 1989) + Onihei Hanka-chō (Fuji Terebi, 1986) + Onyanko torimono-chō nazo no Murasame-jō (Fuji Terebi, 1986) + Omimi-yaku Hichō (Kansai Terebi, 1976) + Omatsuri Ginjirō torimono-chō (Fuji Terebi, 1972) + Oyako daka (Fuju Terebi, TBS, Nihon Terebi) + Oranda Sakon jiken-chō (Fuji Terebi) + Oranda Sakon Hiken-chō (Terebi Tōkyō) + Onna ukiyo-e Beni-no-suke mairu! (Nihon Terebi) + Onna mushuku-nin hanmi no Okon (Terebi Tōkyō) + Onmitsu Bugyō Asahina (Fuji Terebi) + On-yado Kawasemi (NHK, Terebi Asahi) + Kaiketsu Raion-maru (Fuji Terebi) + Fū-ūn Raion-maru (Fuji Terebi) + Kaitō! Yume ichiza shichi henge (Terebi Asahi) + Kakushi Metsuke sanjō (Mainichi Hōsō) + Kage Dōshin (Mainichi Hōsō) + Hattori Hanzō Kage no gundan (Kansai Terebi) + Kagemusha Tokugawa Ieyasu (Terebi Asahi) + Kamiya Genjirō torimono-hikae (Fuji Terebi) + Kami-yui Isaji (Fuji Terebi) + Kawai Tsugi-no-suke kakenuketa Sōryū (Nihon Terebi) + Kawaite sōrō (Fuji Terebi) + Kiso kaidō isogi-tabi (Fuji Terebi) + Kiba Bugyō (Kansai Terebi) + Kiri-sute gomen! (Tōkyō 12 Channel) + Kiri nukeru (Asahi Hōsō) + Kumokiri Nizaemon (Fuji Terebi) + Gumbei meyasu-bako (NET) + Kenka-ya Ukon (Terebi Tōkyō) + Kenkaku shōbai (Fuji Terebi) + Genkurō tabi-nikki Aoi no abaren-bō (Terebi Asahi) + Genji-monogatari (Terebi Asahi, Mainichi Hōsō, 1965) + Ken to kaze to komori-uta (Nihon Terebi) + Kōya no Surōnin (NET) + Kōya no Yōjimbō (NET) + Kogarashi Monjirō (Fuji Terebi, 1972) + Gokenin Zankurō (Fuji Terebi) + Kozure ōkami (Nihon Terebi, Terebi Asahi) + Series Zatōichi (Fuji Terebi) + Series Sambiki ga kiru! (Terebi Asahi) + Sambiki no Samurai (Fuji Terebi, 1963) + Sanjō! Tenkū kenshi (Terebi Tōkyō) + Shikake-nin Fujieda Baian (Fuji Terebi) + Jigoku no Tatsu torimono-hikae (NET) + Shippō Dōshin (Tōkyō 12 Channel) + Jitte-nin (Terebi Asahi) + Jitte Muyō Kyūchō-bori Jiken-chō (Nihon Terebi) + Shōkin kasegi (NET) + Shōgun Iemitsu shinobi-tabi (Terebi Asahi) + Shōgun no Onmitsu! Kage jūhachi (Terebi Asahi) + Shiro Jishi-kamen (Nihon Terebi) + JIN (TBS, 2009-2011) + Shingorō torimono-chō (Nihon Terebi) + Series Shinshun Waido Jidai-geki (Terebi Tōkyō, 1981) + Shinsho Taikō-ki (NET) + Shinsen-gumi! (NHK, 2004) + Shinsen-gumi keppū-roku (NET, 1965) + Shin Momo-tarō Zamurai (Terebi Asahi) + Surōnin Tsukikage Hyōgo (NET, Terebi Asahi) + Senigata Heiji (Fuji Terebi, 1966; Nihon Terebi, Terebi Asahi) + Soba-ya Umekichi torimono-chō (Tōkyō 12 Channel) + Sabu to Ichi torimono-chō (Tōkyō 12 Channel) + Series Taiga Drama của đài truyền hình NHK (sẽ đề cập ở phần sau) + Daruma Taisuke jiken-chō (Terebi Asahi) + Tabi garasu jiken-chō (Kansai Terebi) + Tabi garasu Kurenai Osen (NET) + Tabi-bito Isaburō (Tōkyō 12 Channel) + Chōshichirō Edo nikki (Nihon Terebi) + Tsuki uma-ya Oen jiken-chō (Terebi Tōkyō) + Tsukikage Hyōgo abare-tabi (Terebi Tōkyō) + TBS ōgata Jidai-geki Special (TBS 1987-1995, 1997) + Tenamon-ya Sando-gasa (Mainichi Hōsō 1962-1968) + Teru-hime shichi henge (Fuji Terebi) + Tenka Gomen (NHK, 1971) + Tenka dōdō (NHK, 1973) + Tenbatsu-ya Kurenai yami no shimatsu-chō (Terebi Asahi) + Tōyama no Kin-san torimono-chō (Terebi Asahi 1971) + Dokyō jidai (Chūbu Nihon Hōsō) + Tokugawa onna emaki (Kansai Terebi) + Tokugawa Sangokushi (NET) + Tokugawa Burai-chō (Terebi Tōkyō) + Denshichi torimono-chō (NET, Nihon Terebi, Terebi Asahi) + Dōshin Akatsuki Ran-no-suke (Fuji Terebi, 1981-1982) + Tonosama Fūrai-bō kakure tabi (Terebi Asahi) + Tonderu! Hiraga Gennai (TBS) + Nagasaki hanka-chō (Nihon Terebi) + Nagare-boshi Sakichi (Kansai Terebi) + Ningyō Sashichi torimono-chō (NHK, NET, Terebi Asahi) + Ninjō todokemasu~ Edo musume Hikyaku~ (NHK) + Nimpō Kagerō-giri (Kansai Terebi) + Nemuri Kyōshirō (Kansai Terebi) + Nemuri Kyōshirō Engetsu Sappō (Terebi Tōkyō) + Nemuri Kyōshirō burai-hikae (Terebi Tōkyō) + Nenmatsu Jidai-geki Special (Jidai-geki đặc biệt dịp cuối năm, Nihon Terebi, 1985-1993) + Bakufu omimi-yaki Hijūsaburō (Terebi Tōkyō) + Hagure Isha o-inochi azukarimasu! (Terebi Asahi) + Hagure-gumo (Terebi Asahi, TBS) + Hatamoto taikutsu otoko (Fuji Terebi) + Hasshū hanka-chō (Fuji Terebi) + Hacchō-bori no shichinin (Terebi Asahi) + Hacchō-bori abare gundan (Tōkyō 12 Channel) + Hacchō-bori torimono-banashi (Fuji Terebi) + Happyakuya chō yume nikki (Nihon Terebi) + Hana no shōgai (NHK, 1963) + Hayato ga kuru (Fuji Terebi) + Bangaku no isshō (Fuji Terebi) + Hanshichi torimono-chō (NHK, 1953) + Banzui-in Chōbei (Mainichi Hōsō) + Hiken nagare-boshi Oran (NET) + Series Hissatsu (Mainichi Hōsō, 1972-1991, 2007, 2009, 2010, 2012) + Hime Shōgun ō-bare (Terebi Tōkyō, 1995) + Fū-un! Sanada Yukimura (Terebi Tōkyō) + Fūfu nezumi kon-ya ga shōbu (Terebi Tōkyō) + Burari Shinbei dōjō-yaburi (Fuji Terebi) + Furimuku na Tsurukichi (NHK) + Beni tsubame Oyuki (Mainichi Hōsō) + Henshin Ninja Arashi (Mainichi Hōsō) + Hokutō no hito (Fuji Terebi) + Matamo yameta ka teishu dono~ Bakumatsu no mei Bugyō Oguri Kōzu-no-suke~ (NHK) + Matsudaira Ukon jiken-chō (Nihon Terebi) + Shin Matsudaira Ukon (Nihon Terebi) + Mito Kōmon (TBS, 1969-2011) + Mito Kōmon Gaiden Kagerō Nimpō-chō (TBS, 1995) + Minami Bugyō torimono-chō Ikare! Kyūma (TBS) + Mushuku Samurai (Fuji Terebi) + Muyō-no-suke (Nihon Terebi) + Mei-bugyō! Ō-oka Ichizen (Terebi Asahi) + Me-oto tabi-nikki saraba Rōnin (Fuji Terebi) + Mekura no Oichi (Nihon Terebi) + Moeyo ken (NET) + Momo-tarō Zamurai (Nihon Terebi) + Yagyū Ichizoku no inbō (Kansai Terebi) + Yagyū Jūbei (NHK, Nihon Terebi, NET, Tōkyō 12 Channel) + Yagyū Jūbei abare-tabi (Terebi Asahi) + Yagyū Jūbei nanaban shōbu + Yagyū Jūbei nanaban shōbu. Shimabara no ran + Yagyū Jūbei nanaban shōbu. Saigo no tatakai + Yagyū sandai no ken + Yagyū Shinkage-ryū (Terebi Tōkyō) + Yagyū bugei-chō (Nihon Terebi) + Yabure-gasa Tōshū akunin-gari (NET) + Yabure Shinkurō (Terebi Asahi) + Yabure Bugyō (Terebi Asahi) + Yami wo kiru! Ō-edo hanka-chō (Nihon Terebi) + Yami wo kire (Kansai Terebi) + Yuki-hime Onmitsu dōchū nikki (Mainichi Hōsō) + Yōjutsu bugei-chō (TBS) + Yozakura Osome (Fuji Terebi) + Yo-naoshi Jun-an! Ninjō ken (Terebi Asahi) + Yo-naoshi Bugyō (NET) + Ryōma ni omakase! (Nihon Terebi) + Waka-sama Zamurai torimono-chō (Terebi Asahi) + Waka Taishō Tenka gomen! (Terebi Asahi) Trên đây chỉ giới thiệu một số bộ Jidai-geki nổi tiếng, ngoài số này Nhật Bản còn sản xuất rất nhiều Jidai-geki khác nữa, nhiều không sao kể xiết... Nhân vật Daigorō trong loạt phim Kozure ōkami (sói mang con) được ưa chuộng khắp Thế giới NHK Taiga Drama Là loạt phim chiếu suốt một năm trên đài truyền hình NHK, mỗi năm là một tựa đề. Loạt phim này thường dựa trên kịch bản là các tác phẩm văn học dài kỳ với bối cảnh lịch sử, nhân vật là các nhân vật lịch sử Nhật Bản. Tùy vào tác phẩm mà cũng có khi nhân vật là hư cấu. Trái với thể loại Jidai-geki thông thường vốn nặng về tính sáng tác, NHK Taiga Drama nghiêng về tính sử thực và là một mảng không thể không nhắc tới khi đề cập đến Jidai-geki, phim cổ trang Nhật Bản. NHK Taiga Drama bắt đầu từ năm 1963 và kéo dài đến tận ngày nay. Ban đầu, Taiga Drama chỉ được biết đến trong phạm vi nước Nhật, nhưng trong vài năm gần đây, bắt đầu thấy những bước chân đầu tiên của nó tiến ra hải ngoại, một phần lớn là do sự hâm mộ của giới trẻ trên Thế giới đối với các diễn viên trẻ mới nổi xuất hiện trong Taiga Drama. Dưới đây là danh sách những bộ Taiga Drama từng phát sóng. + Hana no shōgai: 1963 + Akō Rōshi: 1964 + Taikō-ki: 1965 + Minamoto no Yoshitsune: 1966 + Samshimai: 1967 + Ryōma ga yuku: 1968 + Ten to Chi to: 1969 + Momi no ki wa nokotta: 1970 + Haru no sakamichi: 1971 + Shin Heike-monogatari: 1972 + Kuni-tori monogatari: 1973 + Katsu Kaishū: 1974 + Genroku Taihei-ki: 1975 + Kaze to kumo to niji: 1976 + Kashin: 1977 + Ōgon no hibi: 1978 + Kusa moeru: 1979 + Shishi no jidai: 1980 + Onna Taikō-ki: 1981 + Tōge no gunzō: 1982 + Tokugawa Ieyasu: 1983 + Sanga moyu: 1984 + Haru no hatō: 1985 + Inochi: 1986 + Dokugan-ryū Masamune: 1987 + Takeda Shingen: 1988 + Kasuga no Tsubone: 1989 + Tobu ga gotoku: 1990 + Taihei-ki: 1991 + Nobunaga King of Zipangu: 1992 + Ryūkyū no kaze: 1993 + Homura tatsu: 1993-1994 + Hana no ran: 1994 + Hachidai Shōgun Yoshimune: 1995 + Hideyoshi: 1996 + Mōri Motonari: 1997 + Tokugawa Yoshinobu: 1998 + Genroku ryōran: 1999 + Aoi Tokugawa sandai: 2000 + Hōjō Tokimune: 2001 + Toshi-ie to Matsu ~Kaga hyaku-man goku monogatari~: 2002 + MUSASHI: 2003 + Shinsen-gumi!: 2004 + Yoshitsune: 2005 + Kōmyō ga tsuji: 2006 + Fūrin Kazan: 2007 + Atsu-hime: 2008 + Tenchijin: 2009 + Ryōma-den: 2010 + Gō ~Hime-tachi no Sengoku~: 2011 + Taira Kiyomori: 2012 + Yae no sakura: 2013 + Gunshi Kambei: 2014 (dự định) Tác phẩm Manga, Anime Trong số các tác phẩm Manga (truyện tranh) và Anime (phim hoạt hình) với bối cảnh, đề tài lịch sử thì có nhiều tác phẩm trở thành nguyên tác cho Jidai-geki chiếu rạp và chiếu truyền như kể trên và nếu xét theo nghĩa rộng thì chúng được xếp vào thể loại Jidai-geki Manga, Jidai-geki Anime. + Akadō Suzu-no-suke + Afro Samurai + Anmitsu Hime + Ikkyū-san + Iga no Kagemaru + O~i! Ryōma + Kamui den + Kamui no ken + Karasu Tengu Kabuto + Sasuke + Sabu to Ichi torimono-chō + Sasurai-ya Goyō + Samurai Champloo + Jūbei Nimpō-chō + Shura Yuki-hime + Shigurui + Shōnen Tokugawa Ieyasu + Shōnen Ninja Kaze no Fuji-maru + Stranger Mukō hadan + Chidaruma kempō/Onore ni tsugu + Niji-iro Tōgarashi + Hagure-gumo + Hana no Keiji + Basilisk~Kōga Nimpō-chō~ + Vagabond + Manga Mito Kōmon + Mutsu Emmei-ryū Shura no toki + Rurōni Kenshin - Meiji kenkyaku rōman-tan + Watari Các đạo diễn Jidai-geki nổi tiếng + Ikehiro Kazuo + Ichikawa Kon + Itō Daisuke + Inagaki Hiroshi + Uchida Tomu + Okamoto Kihachi + Katō Tai + Kudō Ei-ichi + Kurosawa Akira + Kōno Toshikazu + Gosha Hideo + Sasaki Yasushi + Tanaka Tokuzō + Fukasaku Kinji + Makino Masahiro + Matsuda Sadatsugu + Misumi Kenji + Mizoguchi Kenji + Mori Kazuo + Yasuda Kimiyoshi + Yama-no-uchi Tetsuya Một cảnh trong phim Fukurō no shiro Các diễn viên Jidai-geki tiêu biểu Trước đệ nhị Thế chiến + Onoe Matsu-no-suke: diễn viên vô tiền khoáng hậu, từng diễn trên 1000 phim Jidai-geki. + Ōkōchi Denjirō + Kataoka Chiezō + Arashi Kanjūrō + Bandō Tsuma Saburō + Hasegawa Kazuo + Ichikawa Uta-emon + Tsukigata Ryū-no-suke + Takada Kōkichi + Ōtomo Ryū Tarō + Konoe Jūshirō Trước đệ nhị Thế chiến + Mifune Toshirō + Tamba Tetsurō + Tsuruta Kōji + Azuma Chiyo-no-suke + Ōkawa Hashizō + Misora Hibari + Ichikawa Raizō + Nakamura Kin-no-suke (Yorozu-ya Kin-no-suke) + Katsu Shin Tarō + Fujita Makoto + Mikuni Ren Tarō + Nakamura Ume-no-suke + Nakadai Tatsuya + Hiramiki Jirō + Satomi Kōtarō + Sanada Hiroyuki + Kurizuka Asahi + Katō Gō + Nakamura Katsuo + Chiba Shin-ichi (SONNY CHIBA) + Nakamura Atsuo + Tsugawa Masahiko + Matsukata Hiroki + Matsumoto Kōshirō + Kita Ōji Kin-ya + Fukumoto Seizō + Sugi Ryōtarō + Nakamura Kichi-emon + Takahashi Hideki + Kusanagi Ryōichi + Matsudaira Ken + Mitamura Kunihiko + Murakami Hiroaki + Yakusho Kōji + Watanabe Ken + Kyōmoto Masaki + Higashiyama Noriyuki + Yamaguchi Makiya + Wakayama Tomi Saburō Cảnh Yagyū Jūbei quyết đấu với Miyamoto Musashi trong Makai Tenshō Các Studio Jidai-geki Dưới đây là danh sách các Studio Nhật Bản có thể đảm nhận quay Jidai-geki hiện nay. + Tōei Kyōto Satsuei-jo, làng điện ảnh Uzumasa thuộc hãng Tōei + Shōchiku Kyōto Satsuei-jo + Làng Di Lặc (Miroku no sato) + Làng Nikkō Edo + Warp Station Edo + Làng điện ảnh Shōnai Ngoài những Studio trên, trước đây còn tồn tại rất nhiều Studio khác nhưng theo thời gian, số lượng studio giảm dần vì sự đi xuống của Jidai-geki. Phụ đề Việt ngữ Tuy Jidai-geki là một thể loại cực kỳ to lớn trong nền điện ảnh Nhật Bản nhưng nó lại tỏ ra lép vế so với Gendai-geki (phim với bối cảnh, đề tài đương đại) khi tiến bước ra hải ngoại. Một phần không nhỏ là do Jidai-geki thường đòi hỏi người xem phải hiểu rõ văn hóa, lịch sử Nhật Bản, vốn là một trở ngại lớn đối với nhiều người ngoại quốc. Một phần tiếp đến nữa là khâu dịch thuật. Tiếng Nhật ngày xưa khác với tiếng Nhật hiện đại. Do vậy thứ tiếng Nhật được sử dụng trong các phim Jidai-geki cũng khác so với phim hiện đại. Đây cũng là một khó khăn không dễ gì vượt qua khi bản thân tiếng Nhật hiện đại được đánh giá thuộc hàng khó trong các ngôn ngữ trên Thế giới. Vì những lý do trên, Jidai-geki ít được phổ biến trên Thế giới. Nếu có, thì bản dịch ngôn ngữ từ tiếng Nhật sang các thứ tiếng khác (thường là tiếng Anh) không nêu hết được cái ý nhị, chuẩn xác của câu từ tiếng Nhật. Trong những năm gần đây thấy có một số phim Jidai-geki được dịch sang Việt ngữ, song phần lớn đều thông qua tiếng Anh làm trung gian nên khó có thể chuyển tải cái "thần" của Jidai-geki đến người xem. Đây là một vấn đề nan giải. Trong bối cảnh đó, chúng tôi, một số rất ít người ham mê Jidai-geki đã tìm đến nhau với mục đích hợp tác dịch thuật để cho ra những bộ Jidai-geki với phụ đề Việt ngữ chuẩn xác nhất trong khả năng có thể, không thông qua ngôn ngữ thứ trung gian, nhằm chuyển tải đến người xem cái thú vị của thể loại này một cách trọn vẹn nhất. Quý bạn quan tâm có thể trung cập các địa chỉ sau: Fanpage: http://www.facebook.com/jidaigekivietnam Hầm bà lắng: http://www.facebook.com/gokurakushujo.vietsub Youtube: Jidaigeki - YouTube (Nơi upload những đoạn trailer, demo về Jidai-geki được phụ đề) Trân trọng Download 1. Fukurō no shiro: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi.html#7 2. Kagemusha: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi.html#8 3. Kakushiken Oni no tsume: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi-2.html#13 4. Samurai Fiction: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi-2.html#16 5. Yagyū Ichizoku no Inbō:www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi-2.html#18 6. Kozure ōkami 1: www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi-2.html#20 7. Kozure ōkami 2: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-cu-moi-3.html#24 8. Kozure ōkami 3:http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-3.html#28 9. Kozure ōkami 4:http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-5.html#post5540931#46 10. Kozure ōkami 5: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-6.html#53 11. Kozure ōkami 6:http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-7.html#62 12. Satomi Hakken-den 1983: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-non-hd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-8.html#80 13. Aragami: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-9.html#88 14. Rurōni Kenshin 2012: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-10.html#post5938517 15. Ichimei: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-10.html#99 16. Yōjimbō: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-12.html#111 17. Nobō no shiro: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-12.html#115 18. Tenchi meisatsu: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-13.html#123 19.Chūshingura Hana-no-maki Yuki-no-maki: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-13.html#130 20. Makai tenshō: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-17.html#162 21. Miyamoto Musashi I (1954): http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-17.html#168 22. Loạn (Ran) 1985: http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-19.html#189 23. Iga Nimpō-chō (1982): http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-20.html#192 24. Sōretsu Shinsengumi! Bakumatsu no dōran http://www.hdvietnam.com/diendan/77-mhd-sd/582473-kho-phim-dam-nhat-dvdrip-cu-20.html#199 25. Rurōni Kenshin Kyōto taika hen Link thay thế (Google Drive): click đây
Ðề: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Thanks nhiều, bạn dịch rất công phu và chi tiết, đánh dấu để dành ngâm cứu chứ 1 lần nuốt không nỗi. Mong các bạn lên hàng đều đặn cho ace thưởng thức và hiểu rõ hơn văn hóa Nhật Bản.
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Oshin không thuộc thể loại Jidai-geki nên không được up trong này bạn à.
Ðề: Kho phim đậm Nhật cũ, mới cám ơn bạn về những kiến thức bạn cũng cấp, nhưng hình như bạn chưa up phim nào lên phải ko, mình cũng thích phim Nhật lắm
Ðề: Kho phim đậm Nhật cũ, mới mình kết nhất là loạt phim Kozure ōkami (Sói mang con). đợi bạn up phim
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới I. Fukurō no shiro Tạm dịch: thành cú vọ Năm sản xuất: 1999 Thời lượng: 130 phút Ngôn ngữ: tiếng Nhật Link: Link tải phim Google drive: https://drive.google.com/file/d/0B0KByg2XMU9deFNsZFNiaENLdTg/edit?usp=sharing Xem Online http://gokuraku-shujo.blogspot.com/2014/03/fukuro-no-shiro-1999-download-xem-online.html Fukurō no shiro Mạo đầu Fukurō no shiro là cuốn tiểu thuyết Ninja hay nhất tôi từng đọc. Nó không chỉ mô tả những kỹ thuật xuất quỷ nhập thần, trèo tường khoét vách của bọn Ninja cũng như từng thủ đoạn chính trị của các lãnh chúa phong kiến đương thời, nó còn đi sâu vào mô tả thế giới nội tâm của những con người trong bộ đồ đen, ban đêm chạy nhảy trên mái cung điện vua chúa mà có cảm giác sung sướng như mình chính là kẻ sở hữu cung điện đó. Fukurō no shiro là cuốn tiểu thuyết đầu tiên mô tả thế giới nội tâm biến huyễn, vô thực của Ninja, những con người sống trong bóng tối, ngoài luồng xã hội. Nó biến ảo đến lạ lùng, đến bản thân họ cũng không thể nhận ra chính con người thực của mình sau bao lớp mặt nạ, nó biến ảo như thứ kỹ thuật ma mị quái đản mà họ sở hữu vậy. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết dài kỳ đầu tay của đại văn hào Shiba Ryō Tarō, ông viết cuốn này năm 1959 và nhận được giải thưởng văn chương Naoki lần thứ 42 vào năm 1960. Ba năm sau, vào năm 1963, nội dung cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim với tiêu đề Ninja Hichō Fukurō no shiro, tuy nhiên bộ phim trắng đen này đã không gây được mấy tiếng tăm. Đến năm 1999, hãng phim Tōhō một lần nữa khiêu chiến với Fukurō no shiro. Phiên bản 1999 với nhiều cảnh quay đẹp mắt hơn, một phần sử dụng kỹ thuật CG nên trông càng biến ảo lạ lùng, phù hợp với nội dung mô tả thế giới biến huyễn của đám Ninja hơn. Với thời lượng hơn 2 tiếng, phiên bản 1999 đã làm khá tốt nhiệm vụ truyền tải nội dung của Fukurō no shiro đến người xem. Fukurō no shiro là một phim hay cho những người có chút trải nghiệm về nhân sinh trong cuộc đời. Âm nhạc trong phiên bản 1999 này cũng là một dấu cộng lớn. Nhạc chủ đề của phim lấy cảm hứng từ kịch Kabuki, nhiều phân đoạn biến ảo mông lung như chính nội tâm của nhân vật Ninja trong phim. Nội dung Người tộc Iga là Tsuzura Jūzō sống hết cả thời trai trẻ của mình như một Ninja nhằm ám sát Toyotomi Hideyoshi, người thừa kế sự nghiệp của Oda Nobunaga sau khi Nobunaga thảm sát hết cả tộc Iga. Trong khi đó, một huynh đệ đồng môn của Jūzō là Kazama Gohei lại vứt bỏ con đường Ninja của mình, dùng những kỹ thuật Ninja đã học hòng tìm đường tiến thân vào xã hội Võ gia, gia nhập hàng ngũ của các Samurai được xã hội trọng vọng. Gohei bán đứng Iga, quyết tâm bắt được Jūzō để lập công lớn. Trong bối cảnh cuối thời Chiến quốc, Fukurō no shiro mô tả hai nhân sinh quan đối lập nhau như vậy của hai Ninja đồng môn. Nội dung bộ phim toát lên tinh thần cầu đạo của Jūzō. Mỗi người đều có cái "đạo", tức con đường đi của mình. Dẫu là Ninja, là trộm cướp, thì vẫn có cái đạo của chúng và Jūzō quyết tâm theo đuổi cái đạo đó đến tận cùng. Hắn hy sinh cả tính mạng, vứt bỏ hết mọi thứ chỉ để làm trọn vẹn cái "đạo" của một Ninja. Cao trào của bộ phim là khi Jūzō đối mặt với Hideyoshi, mục tiêu săn đuổi cả đời của hắn. Và thứ mà hắn nhận được sau bao năm gian khổ theo đuổi mục tiêu là gì? Fukurō no shiro giống như cuộc đời, là một vở hài kịch buồn. Lắm thứ trớ trêu lại khiến ta bật cười, cười vì tính trớ trêu và dở hơi của cuộc đời, chỉ như giấc mộng bên trong giấc mộng... Staff + Đạo diễn: Shinoda Masahiro + Kịch bản: Shinoda Masahiro, Naruse Katsuo + Âm nhạc: Yuasa Jōji + Cố vấn action: Mōri Motosada + Cố vấn SFX: Kawazoe Kazuto + Mỹ thuật: Nishioka Yoshinobu + Chế tác: Fuji Television, Tōhō, Nintendō, Heiwa Pachinko, Sankei Shimbun, Nippon Hōsō, PONY CANYON, Sankei Living Shimbun, IMAGICA Cast + Tsuzura Jūzō: Nakai Kiichi + Kohagi: Tsuruta Mayu + Kazama Gohei: Kamikawa Takaya + Kisaru: Riona Hazuki + Marishiten Dōgen: Nagasawa Toshiya + Shimotsuge Jirō Zaemon: Yamamoto Gaku + Kuroami: Hino Shōhei + Toyotomi Hideyoshi: Mako Iwamatsu + Hattori Hanzō: Nezu Jimpachi + Tokugawa Ieyasu: Nakao Akira + Ishida Mitsunari: Hanayagi Juraku + Maeda Gen-i: Tsumura Takashi + Imai Sōkyū: Ozawa Shōichi + Yodo-gimi: Tanaka Nobuko Demo trên Youtube [video=youtube;Kbh0YpMlt4Y]http://www.youtube.com/watch?v=Kbh0YpMlt4Y[/video]
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới II. Kagemusha Tạm dịch: Võ sĩ thế thân Thể loại: Jidai-geki Năm sản xuất: 1980 Ngôn ngữ: tiếng Nhật Thời lượng: 180 phút Link download Bản HD 8Gb Link tải phim Fshare: Kagemusha Vietsub Bản SD 1.8Gb http://gokuraku-shujo.blogspot.com/2014/01/kagemusha-xem-online-link-download.html Mạo đầu Danh từ Kagemusha trong tiếng Nhật dùng để chỉ các nhân vật đóng thế cho các vị Tướng quân, lãnh chúa thời phong kiến, một kiểu bù nhìn vì lý do chính trị. Trong đó "kage" là cái bóng và "musha" là Võ sĩ Samurai. Và đề tài của bộ phim Kagemusha năm 1980 của đạo diễn Kurosawa Akira cũng không đi ra khỏi nghĩa đen của từ này. Kagemusha là bộ phim dành được giải Cành cọ vàng năm 1980 và giải thưởng giành cho phim ngoại quốc hay nhất năm 1981. Kagemusha là bộ phim duy nhất trong số các tác phẩm của đạo diễn Kurosawa Akira nói về Võ tướng thời Chiến quốc (Sengoku) và là bộ phim chiếm kinh phí dàn dựng lớn nhất trong lịch sử điện ảnh Nhật Bản từ trước đó cho đến năm 1983, khi bị bộ phim "Câu chuyện Nam cực" (Nankyoku-monogatari) qua mặt. Quả thật, người xem sẽ không tránh khỏi cảm giác choáng ngợp trước vẻ hoành tráng, kỹ lưỡng trong từng chi tiết lịch sử được tái hiện qua từng hình ảnh đẹp mắt trong phim, và đây cũng là yếu tố làm nên thương hiệu của Kurosawa. Kurosawa Akira được đánh giá là người có công rất lớn trong việc giới thiệu điện ảnh Nhật Bản ra Thế giới và mang vinh quang, sự tán thưởng của Thế giới về cho đất nước Mặt trời mọc. Và qua bộ phim đậm bi-hài-kịch đậm chất lịch sử này, người xem sẽ dễ dàng hiểu được vì sao Kurosawa lại được đánh giá như vậy. Nhạc nền của phim cũng đậm chất hoàng tráng và bi thống. Người ta nói Kurosawa là một thiên tài, và người soạn nhạc cho bộ phim này cũng là một thiên tài không kém. Nội dung Kagemusha kể về câu chuyện của một tên đạo tặc có dung mạo giống hệt Takeda Shingen, vị võ tướng lừng danh xứ Kai thời Chiến quốc. Từ một tên đạo tặc bị bắt được, suýt phải tội hành hình, hắn được Shingen tha mạng và từ đó cảm phục con người Shingen. Trong một chiến dịch, Takeda Shingen bị quân địch bắn trọng thương, trước khi chết có dặn chư tướng rằng không được để lộ cái chết của mình ra ngoài trong 3 năm nhằm tránh cho dòng họ Takeda khỏi bị chư hầu tiêu diệt. Cái khó là phải tìm được người đóng giả Shingen trong 3 năm, và tên đạo tặc lần trước được nhắc đến. Hắn vào vai diễn Takeda Shingen quá đỗi thành công, đến mức lừa được cả chư tướng thân cận và thê tử của Shingen. Nhưng rồi... Với thời lượng 180 phút, bộ phim miêu tả cuộc đời của tên đạo chích như một tấn bi-hài-kịch và kết thúc bằng lòng trung nghĩa của hắn đối với nhà Takeda. Phim có hai phiên bản là phiên bản chiếu trong nước (3 tiếng) và phiên bản Quốc tế đã được cắt bỏ một số chi tiết vốn khó hiểu đối với người ngoại quốc không rành lịch sử, văn hóa Nhật Bản. Staff + Chế tác: Tanaka Tomoyuki, Kurosawa Akira + Kịch bản: Kurosawa Akira, Ite Masato + Âm nhạc: Ikebe Shin Ichirō + Chỉ huy dàn nhạc: Satō Kōtarō + Biểu diễn: đoàn nhạc giao hưởng New Japan Philharmonic + Quay phim: Saitō Takao, Ueda Shōji + Thu âm: Yaguchi Fumio + Ánh sáng: Sano Takeji + Chỉ đạo phong cách Võ gia: Kuze Ryū + Chỉ đạo mã thuật: Shirai Minpei + Huấn luyện ngựa: Hasegawa Kawatoshi + Mỹ thuật: Kimura Yoshirō Cast + Nakadai Tatsuya: Kagemusha/Takeda Shingen + Yamazaki Tsutomu: Takeda Nobukado + Hagiwara Ken-ichi: Suwa Katsuyori + Ōtaki Hideji: Yamagata Masakage + Ryū Daisuke: Oda Nobunaga + Yui Masayuki: Tokugawa Ieyasu + Murota Hideo: Baba Nobuharu Và các diễn viên khác Media Đoạn mở đầu trên Youtube [video=youtube;pIphVWki-SQ]http://www.youtube.com/watch?v=pIphVWki-SQ[/video]
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Tiểu thuyết "Fukurō no shiro" (thành cú vọ) của tác giả Shiba Ryō Tarō lần đầu tiên được đăng liên tục trên "Chūgai Nippō", một nhật báo về tôn giáo từ tháng 4 năm 1958 (niên hiệu Shōwa thứ 33) cho đến tháng 2 năm 1959 và được nhà xuất bản Kōdansha in thành sách khổ bỏ túi năm 1959. Đến năm 1960 thì tiểu thuyết này nhận được giải thưởng văn học Naoki lần thứ 42. Ban đầu tác phẩm này có tên là "Fukurō no iru tojō" (đô thành nơi chim cú ở) vì nó trực tiếp miêu tả hành vi sống về đêm của bọn Ninja Iga như bầy chim cú. Nhưng đến khi xuất bản thành sách khổ bỏ túi thì được đổi tên lại thành "Fukurō no shiro" như hiện nay. Có thể nói đây là một trong những tác phẩm đầu tay đã thúc đẩy tác giả Shiba Ryō Tarō viết về lịch sử, và sau này ông còn viết nhiều tác phẩm khác về Ninja. Ông nhận được huân chương văn hóa, huân chương danh dự nhất của đất nước Mặt trời mọc vì những cống hiến cho văn học dã sử của mình. "Fukurō no shiro" chính là cuốn tiểu thuyết đưa ông vào thế giới của những nhân vật lịch sử. Shiba được mệnh danh là người bạn của nhân vật lịch sử bởi lẽ trong suốt sự nghiệp viết lách của mình, ông dành phần lớn tập trung cho đề tài lịch sử. Từ đó đã hình thành nên khái niệm "sử quan Shiba Ryō Tarō", cách nhìn nhận độc đáo về lịch sử của chính tác giả. Có thể nó không đúng với thực sử, nhưng nó luôn được hợp lý hóa và đem lại nhiều hứng thú cho người đọc. Tên tuổi ông luôn bảo đảm bằng vàng cho bất cứ cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn nào về lịch sử, chúng luôn đứng trong danh sách bán chạy nhất nước Nhật. Trong tiểu thuyết này, tác giả cũng đã thể hiện "sử quan" độc đáo của mình khi xây dựng một câu chuyện với sự đan xen phức tạp của những nhân vật hư cấu và nhân vật trong thực sử. Người đọc cảm nhận một cách tự nhiên về sự lồng ghép mà không thấy mối ghép này. Nội dung chính của tác phẩm là một sự tương đối hóa của tác giả đối với mọi thứ, tình yêu, danh dự, thù hận, nhân sinh quan.... Thông qua tên Ninja xứ Iga là Tsuzura Jūzō, tác giả đã thành công khi xây dựng một mẫu người cầu đạo, vứt bỏ mọi thứ của bản thân để hoàn thành cái đạo của mình. "Đạo" ở đây được hiểu là con đường cần phải đi của mỗi người, điều mình cho là đúng hay là lý tưởng của bản thân. Đối với Jūzō thì "đạo" chính là lối sống của Ninja, điều mà xã hội phong kiến Nhật Bản lúc đó luôn miệt thị bởi nó đi ngược lại mọi quy tắc đạo đức, tiết tháo của Võ Sĩ đạo. Con người chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc nhắm mắt, không có mấy người thấy được cái "đạo" của mình. Trong số thấy được đó, phần đông lại không có đủ dũng khí để đi theo cái "đạo" đó. Bởi lẽ chúng ta bị ràng buộc trong vô số xiềng xích của cuộc sống mà có lẽ là không mấy ai muốn thoát ra. Bởi nếu thoát ra hết mọi ràng buộc thì đời còn gì là nghĩa lý? Tsuzura Jūzō là một nhân vật trưởng thành trong cái "đạo" của mình, muốn sống chết vì nó và vứt bỏ mọi thứ cá nhân như tình yêu, sự nghiệp vì nó. Một kẻ tài năng như Jūzō nếu chỉ cần có cái tâm an phận như bao người bình thường khác thì có lẽ hắn đã sống đời một võ sĩ bổng lộc ngàn hộc, đứng trên ngàn người, hưởng mọi đặc quyền đặc lợi. Nhưng hắn không chọn con đường mà người bình thường vẫn chọn đó. Hắn muốn hy sinh bản thân cho "đạo". Chuyện ám sát Hideyoshi, kẻ nắm thiên hạ cũng là một hành động hy sinh vì đạo. Hắn đã chọn con đường của Kinh Kha, bởi lẽ ra đi là không còn đường trở về. Nhưng khác với Kinh Kha, hành động của Jūzō xuất phát từ lòng hận thù và khoái cảm khi sống trong "đạo". Cái tâm theo đuổi "đạo" đến cùng còn được thấy qua một bộ tiểu thuyết khác rất nổi tiếng là "Miyamoto Musashi" của đại văn hào Yoshikawa Eiji trước đệ nhị Thế chiến. Hình tượng Tsuzura Jūzō ở đây cũng giống như hình tượng Musashi, luôn khắc khổ, hy sinh vì lý tưởng của bản thân. Xét về điểm này thì cả Jūzō và Musashi đều giống các vị khổ hạnh tăng trên đường tìm đến giác ngộ, lý tưởng cả đời của họ. Nhưng dĩ nhiên là giữa Jūzō và Musashi cũng có những điểm khác nhau. Đó là điểm khác nhau trong suy nghĩ, nhận thức giữa hai thế hệ bị chiến tranh chia cắt. Tác giả Shiba Ryō Tarō đã tương đối hóa hết mọi thứ, kể cái cái "đạo" của Jūzō khi hắn đột nhập vào lâu đài của Hideyoshi nhưng giờ đây, trước mặt hắn, kẻ thống trị nước Nhật bạo tàn này chỉ là một lão già yếu đuối không còn sức tự vệ.... Bên cạnh Jūzō còn một hệ thống những nhân vật phụ phức tạp khác mà chủ yếu tác giả tập trung vào Kazama Gohei như là một kiểu nhân vật luôn hành động vì lợi. Hễ có lợi là làm, không từ mọi phương tiện thủ đoạn. Dĩ nhiên con người ai cũng hành động vì lợi cả. Bố thí một kẻ ăn mày, khen ai đó một câu thật lòng, người vui mà ta cũng vui. Ta thấy vui, ấy cũng là cái lợi vậy. Ý nghĩa của "lợi" bao la rộng khắp, nhưng người đời chỉ bó hẹp cho nó trong cái nghĩa lợi dục vật chất. Và Gohei đúng là mẫu người triệt để cho định nghĩa hẹp của từ "lợi". Nhân vật Kisaru bên cạnh Gohei là hình mẫu thiếu nữ ngây thơ nơi đồng hoang dã nội. Kết cục của Kisaru khiến người đọc phải suy nghĩ về sợi dây nhân quả của ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp. Không có gì vô lý khi Kisaru lại nhận được kết cục như thế với tính cách như thế. Kohagi là một nhân vật phá cách của hình tượng phụ nữ thời phong kiến. Nàng đã chủ động tiếp cận, trao thân cho Jūzō ngay lần đầu khi giả trang làm du nữ. Hành động này nói lên tính kháng cự số phận của nàng. Phụ nữ Á châu thời phong kiến dường như không có chút đặc quyền nào trong xã hội, luôn là quân cờ chính trị trong tay những kẻ quyền lực-là-đàn-ông. Dù mang trong mình nét thùy mị diệu dàng của một tiểu thư được giáo dưỡng trong cửa danh gia, nhưng Kohagi luôn mang tinh thần phản kháng cao độ với số phận được sắp đặt trước và luôn tính toán từng bước đi của mình. Có thể nói đây là nhân vật bí ẩn nhất trong tác phẩm vì mọi sự về nàng chỉ được tiết lộ trong phần cuối của câu chuyện. Trước đó nàng luôn ẩn mình trong màn sương mù dày đặc, lúc là địch lúc là ta khiến người đọc luôn tò mò không biết con người này thật sự là như thế nào. Đề tài Ninja lần đầu tiên xuất hiện khi nhà xuất bản Tachikawa Bunko tạo ra hình tượng nhân vật Ninja Sarutobi Sasuke và kể từ đó đề tài này rất được đại chúng ưa chuộng. Từ sau Thế chiến cho đến những năm Shōwa 30 thì trong trào lưu tiểu thuyết thời đại, hình tượng Ninja luôn được xây dựng với bộ trang phục đen, hành động bí mật xuất quỷ nhập thần. Sau đó nó còn được cổ súy bởi một loạt những tiểu thuyết như "Shinobi no mono", "Yagyū Bugei-chō" của Gomi Yasusuke,... và rất nhiều trong số đó đã được dựng thành phim. Tiểu thuyết "Fukurō no shiro" cũng đã 2 lần được dựng thành phim cho đến thời điểm này. Điểm khác nhau giữa "Fukurō no shiro" và những tiểu thuyết Ninja khác là nó miêu tả chính diện một tên Ninja bằng xương bằng thịt cùng những suy nghĩ, hành động của hắn chứ không chỉ là miêu tả gián tiếp với những hành động ẩn mật, biến hóa khôn lường qua cách nhìn của người thứ ba. Sau Thế chiến còn một tiểu thuyết Ninja khác nữa là "Kōga Ninpō-chō" của Yamada Fūtarō. "Kōga Ninpō-chō" đậm màu sắc bạo lực, ma quái và sắc dục, đây là những đặc điểm của tác giả này. Nhân vật Ninja trong đó được miêu tả với những năng lực siêu nhiên tà dị và cuốn tiểu thuyết này tỏ ra rất hợp với văn hóa đại chúng. Nó đã được dựng thành phim truyện, truyện tranh và phim hoạt hình (Anime) rất ăn khách trong giới trẻ hiện nay. Trái lại, nhân vật Ninja trong "Fukurō no shiro" được mô tả như là những con người xương thịt bình thường, năng lực đặc dị của họ có được là do luyện tập tích cực và không có gì là siêu nhiên kỳ bí cả. Để kết thúc bài viết này xin lượt qua "định nghĩa" về Ninja để độc giả dễ dàng hình dung hơn. Ninja là cách đọc âm Hán-Nhật của chữ Hán 忍者, âm Hán Việt đọc là "nhẫn giả". Cách đọc thuần Nhật là "shinobi no mono", nghĩa là kẻ đột nhập. Từ "nhẫn" ở đây có 2 ý nghĩa là xuất phát từ động từ "shinobu" trong tiếng Nhật (đột nhập, lẻn vào) và ý nghĩa nhẫn nhục chịu đựng gian khổ trong quá trình luyện tập. Ninja là danh từ chỉ cá nhân hoặc đoàn thể gián điệp, đặc công trong thời phong kiến ở Nhật (từ thời Kamakura đến thời Edo). Ninja là những kẻ ám sát lén lút, chuyên nghe trộm, giả trang trà trộn vào trận địch để thu thập tin tức, gây xáo trộn hàng ngũ, phao tin thất thiệt, phóng hỏa đốt nhà, cướp bóc giật dọc,....nói chung là những hành động bị coi là đê tiện hèn hạ mà một võ sĩ Samurai không thể làm được. Ninja được các lãnh chúa phong kiến khắp nơi trên nước Nhật thuê mướn để tiêu diệt đối thủ trong bóng tối. Tuy người ta vẫn không biết đích xác Ninja được hình thành từ khi nào nhưng có thể suy đoán được nó đã tồn tại từ thế kỷ thứ 8, 9 khi tầng lớp quý tộc nổi loạn bại trận chạy trốn đến những vùng núi cao hiểm trở và tự trang bị cho mình những kỹ năng sống còn nơi khắc nghiệt. Đây là hình thức đặc công, gián điệp có tổ chức, quy mô và bài bản sớm nhất Thế giới. Trang phục truyền thống của Ninja là bộ quần áo dạ hành đen vì chúng thường hành động về đêm và không thể để người khác phát hiện ra hành vi lén lút của mình. Đã có thời người ta tin rằng Ninja là những người có năng lực thần bí như độn thổ, phi thân, chạy trên tường, đi trên mặt nước,....nhưng thực chất đây chỉ là kết quả của quá trình luyện tập khắc nghiệt khi còn bé cộng với sự hỗ trợ của những loại dụng cụ đặc biệt gọi là "Nhẫn cụ" (Ningu). Đó là những thứ đồ dùng được chế tạo cho những mục đích đặc biệt như leo tường, leo mái nhà. Món đồ "tay gấu" (Kumade) trong tiểu thuyết này là một trong số đó. Thuật Ninja được gọi là Ninjutsu (Nhẫn thuật), Ninpō (Nhẫn pháp) bao gồm võ nghệ kiếm pháp, thuật cải trang, đột nhập và bất cứ thứ gì cần thiết cho đặc vụ của mình. Chẳng hạn như khi giả trang làm thầy tu thì Ninja phải học cách đọc kinh, am hiểu giới luật như một nhà sư thực thụ để địch không phát hiện được. Như vậy Ninja là những kẻ cực kỳ tháo vát và biết rõ mọi thứ mình làm. Hay nói cách khác đó là những nhà chuyên môn, những tay điệp viên chuyên nghiệp như thời nay. Ninja còn có nhiều tên gọi khác như "Shinobi", "Rappa", "Suppa", "Toppa", "Onmitsu".... nhưng đại chúng nhất, được mọi nơi trên Thế giới biết đến vẫn là từ "Ninja". Có thể nói Ninja là hình tượng văn hóa của Nhật. Không một người Nhật nào không yêu thích Ninja, nhất là trẻ con vì đối với chúng, đó là những người hùng tựa như Superman (siêu nhân) hay Spiderman (người nhện). Và dĩ nhiên là không chỉ giới hạn trong nước Nhật... Ninja có nhiều lưu phái trên khắp nước Nhật, nhưng nổi tiếng nhất là phái Iga và Kōga ở tỉnh Mie ngày nay. Ngày xưa, Iga và Kōga là hai xứ núi non hiểm trở, sống bằng nông nghiệp và cô lập với thế giới bên ngoài. Đây là điểm mấu chốt khiến mọi thông tin, hiểu biết về thế giới Ninja của người bên ngoài luôn bị bao bọc trong tấm màn đen mù mờ, hệt như bản chất của Ninja. Tuy chỉ cách nhau một dãy núi nhưng Ninja Kōga luôn trung thành tuyệt đối với chủ còn Iga thì luôn tráo trở và chẳng trung thành với ai. Năm Tenshō thứ 7 (1579), một Ninja Iga là Yamashita Kai phản bội đồng bọn, mật báo với con trai thứ của tướng Oda Nobunaga là Nobuo rằng nội bộ Iga đã mất đoàn kết, đây là thời điểm thuận lợi để tiến hành xâm lược. Nobuo nghe theo và cho xây thành Maruyama làm cứ điểm tấn công Iga nhưng đã bị Ninja Iga đoán biết trước nên cuộc xâm lược thất bại nặng nề. Đây là cuộc loạn Iga năm Tenshō lần đầu. Nobunaga hay tin bại trận đã phẫn nộ huy động đại quân đè bẹp Iga, toàn bộ Ninja xứ này phải sống lưu vong ở các xứ khác. Sử sách gọi đây là cuộc loạn Iga năm Tenshō lần hai. Shiba Ryō Tarō đã xây dựng tiểu thuyết "Fukurō no shiro" trên cái nền lịch sử này....
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Cập nhật link down Kagemusha bản 8.2Gb, đã khắc phục lỗi lệch tiếng ở cuối phim so với bản trước. Linkdown: xem #8
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới III. Kakushiken Oni no tsume Tạm dịch: Ẩn kiếm Quỷ trảo Thể loại: Jidai-geki Hãng sản xuất: Shōchiku Năm sản xuất: 2004 Thời lượng: 131 phút Ngôn ngữ: tiếng Nhật Chấm điểm trên IMDB: 7.6/10 Download Banr HD 6Gb Fshare: Link tải phim Fshare - Dich vu chia se, luu tru du lieu mien phi tot nhat Bản SD 1.4G: Fshare: Link tải phim Fshare - Dich vu chia se, luu tru du lieu mien phi tot nhat Leech Fshare: BVTH Get Link V2.1 - Premium Link Generator Khái yếu Kakushiken Oni no tsume là tên một thiên truyện ngắn trong tập tiểu thuyết thời đại (Jidai-shōsetsu) của nhà văn Fujisawa Shūhei, và cũng là tên bộ phim dựa trên truyện ngắn này được đạo diễn Yamada Yōji dựng thành phim vào năm 2004. Kakushiken Oni no tsume là tác phẩm thứ hai trong series phim về thân phận người Võ sĩ Samurai dựng từ tiểu thuyết của Fujisawa Shūhei, sau khi Tasogare Seibei (Seibei hoàng hôn) độc chiếm hết các giải điện ảnh trong nước Nhật và được đề cử tranh giải Oscar cho phim ngoại quốc hay nhất. Nội dung của Ẩn kiếm Quỷ trảo là sự kết hợp nội dung của thiên truyện ngắn cùng tên và truyện ngắn Yuki akari (ánh tuyết) trong tập tiểu thuyết Kakushiken của Shūhei, bộ phim xoay quanh câu chuyện của một Võ sĩ phương Bắc trong thời khắc giao mùa của xã hội Nhật Bản, khi cái cũ bị phá bỏ và văn minh Tây âu được tiếp nhận. Toàn bộ phim là một góc nhìn nhân bản về thân phận con người và những mối quan hệ xã hội. Nhân vật chính trong phim luôn khổ tâm về giai cấp Samurai của mình và bị lôi kéo vào cuộc nổi loạn do một người bạn gây ra. Bên cạnh đó, anh còn phải chống chọi với dư luận của thiên hạ khi thầm yêu cô hầu gái, người có thân phận thấp hèn và đây là điều không thể chấp nhận được trong một xã hội vốn đặt nặng tôn ti trật tự. Nhẹ nhàng, sâu lắng, đi vào lòng người và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là đặc điểm của nhà văn Fujisawa Shūhei, khiến ông được cả thế giới phương Tây biết đến với loạt tiểu thuyết thời đại của mình. Và đạo diễn Yamada Yōji đã thể hiện thành công Kakushiken Oni no tsume qua góc nhìn điện ảnh. Không khó hiểu vì sao bộ phim này được cộng đồng Quốc tế đánh giá khá cao, với điểm số 7.6/10 tại trang IMDB. Nội dung Câu chuyện xảy ra tại phiên trấn giả tưởng Umisaka ở miềng Đông Bắc nước Nhật, vào cuối thời Mạc phủ Edo. Nửa đầu phim có nhịp điệu khá trầm, chủ yếu miêu tả tình cảm nhẹ nhàng của Katagiri Munezō với cô hầu gái Kie. Sau khi Kie đi lấy chồng, Munezō trải qua những ngày tháng tẻ nhạt, giữ gìn tiết tháo của một Samurai điển hình trong bối cảnh đất nước ngày càng Âu hóa, tiếp xúc với nhiều thứ văn minh từ phương Tây. Nhưng tình yêu thầm kín của một Samurai dành cho nàng hầu gái là điều không thể chấp nhận được trong cái xã hội cũ kỹ vẫn chưa thoát khỏi những suy nghĩ lạc hậu của đám Samurai nơi quê mùa. Nửa sau của bộ phim biến chuyển khá nhanh, khi Munezō hay tin một thân hữu của mình là Hazama Yaichirō tạo phản chống lại Mạc phủ, bị đầy về xứ để hành hình. Qua bao nhiêu âm mưu bẩn thỉu của đám quan lại bất tài, Munezō bị buộc phải giết chết người bằng hữu của mình với danh nghĩa giúp phiên trấn thanh trừng phản loạn. Nhưng rồi biết được vợ của Hazama bị lợi dụng trong vụ việc này nên đâm cổ tự sát theo chồng, Munezō quyết tâm dùng bí chiêu "ẩn kiếm quỷ trảo" để báo thù cho bạn mình. Cuối phim, Munezō quyết định vứt bỏ thân phận Võ sĩ Samurai của mình để sống một đời thường dân, tìm đến chỗ nàng Kie để bày tỏ tình yêu của mình.... Staff + Đạo diễn: Yamada Yōji + Kịch bản: Yamada Yōji, Asama Yoshitaka + Nguyên tác: Fujisawa Shūhei + Hãng sản xuất: Shōchiku + Giám đốc sản xuất: Yamamoto Ichirō + Giám sát mỹ thuật: Nishioka Yoshinobu + Chỉ đạo từ địa phương: Yamasaki Seisuke + Chỉ đạo võ thuật: Kuzeshi Chōkai, Office Big + Thu âm: Kishida Kazumi Cast + Nagase Masatoshi: vai Katagiri Munezō + Matsu Takako: vai Kie + Yoshioka Hidetaka: vai Shimada Samon + Ozawa Yukuyoshi: vai Hazama Yaichirō + Tabata Tomoko: vai Shimada Shinō + Tanaka Min: vai Toda Kansai + Takashima Reiko: vai vợ Hazama + Ayata Toshiki: vai Shimada Saemon + Ogata Ken: vai Gia lão Hori Media [video=youtube;QS62XKapYQc]http://www.youtube.com/watch?v=QS62XKapYQc[/video] [video=youtube;9w_VQUSUHQI]http://www.youtube.com/watch?v=9w_VQUSUHQI[/video]
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Edited (Mạng gặp vấn đề, post bài không thấy hiện lên, làm lần nữa lại ra 2 bài giống nhau)
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Bổ sung link down Kakushiken Oni no tsume Bản SD 1.4G: Fshare: Fshare - Dich vu chia se, luu tru du lieu mien phi tot nhat
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới IV. Samurai Fiction Thể loại: Jidai-geki, hài hước Năm sản xuất: 1998 Thời lượng: 111 phút Ngôn ngữ: tiếng Nhật Điểm trên IMDB: 7.1/10 Download Link tải phim http://gokuraku-shujo.blogspot.com/2014/12/jidaigeki-samurai-fiction.html Khái yếu Samurai Fiction (SF) là một phim Jidai-geki dị sắc, lạ lùng của đạo diễn Nakano Hiroyuki vào năm 1998. Nó đi lệch khỏi quỹ đạo thông thường của một Jidai-geki bình thường. Đạo diễn Nakano Hiroyuki vốn xuất thân từ một nhạc sĩ, và ông đã quy tụ một dàn sao liên quan tới ca nhạc vào trong bộ phim này và bộ phim đã trở thành đề tài bàn tán xôn xao vào những năm đó. Nói SF là một bộ phim dị sắc bởi một trong các lẽ, nó là một bộ phim trắng đen. Dĩ nhiên là với kỹ thuật dựng phim của thập niên 90, người ta thừa sức để làm một bộ phim màu. Không rõ dụng ý của đạo diễn Nakano ở đây là gì khi làm một bộ phim trắng đen, thỉnh thoảng lại chen vào một vài cảnh có khung nền màu rực rỡ. Chẳng hạn như khi có một nhân vật nào đó trong phim bị giết chết, khung hình chuyển sang đỏ rực. Một số cảnh quay dưới nước lại có khung nền xanh đậm. Như đã nói, SF có dàn diễn viên gồm các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng đương thời. Diễn viên Hotei Tomoyasu đóng vai Kazamatsuri Ran-no-suke trong phim cũng là một nhạc sĩ, một tay chơi guitar có tiếng. Và toàn bộ nhạc nền trong phim cũng đậm chất guitar của Hotei. Trong SF, diễn viên Hotei cũng giành được giải thưởng nam diễn viên mới xuất sắc nhất trong liên hoan phim Takasaki lần thứ 13, còn Ogawa Tamaki giành được giải nữ diễn viên xuất sắc nhất qua vai diễn Koharu. Nội dung Câu chuyện diễn ra tại phiên trấn giả tưởng Nagashino dưới thời Tướng quân Tokugawa cai trị. Phiên trấn được Tướng quân ban tặng một thanh bảo kiếm, và phải sử dụng nó trong ngày lễ thành nhân của vị chúa trẻ. Nhưng Kazamatsuri Ran-no-suke, một kiếm khách giang hồ tài ba được thuê để bảo vệ thanh kiếm lại trộm nó rồi bỏ đi. Con trai của quan đầu phiên là Inukai Heishirō cảm thấy có trách nhiệm trong việc này và lên đường đuổi theo Kazamatsuri hòng đoạt lại bảo kiếm. Trên đường đi, Heishirō gặp bao chuyện dở khóc dở cười và cuối cùng gặp được Mizoguchi Hambei, một trong hai con người làm thay đổi cách nhìn nhận của anh về cuộc đời. Mizoguchi là một tay kiếm tài ba nhưng lại không chịu ra làm quan để xuất thế lập thân, quyết tâm sống một đời thanh nhàn với cô con gái Koharu và giữ trọn lời thề không bao giờ rút kiếm giết người. SF đã xây dựng thành công hình tượng hai kiểu Võ sĩ Samurai qua nhân vật Mizoguchi Hambei và Kazamatsuri Ran-no-suke hoàn toàn đối chiếu trái ngược nhau. Nhưng giữa họ cũng có những điểm chung......... "Khi từ bỏ được cái ngã, vứt bỏ được chấp trước thì người ta có thể cảm nhận được thần linh và chư Phật để yêu thương con người hơn nữa". Cast + Inukai Heishirō: Fukikoshi Mitsuru + Kazamatsuri Ran-no-suke: Hotei Tomoyasu + Mizoguchi Hambei: Kazama Morio + Mizoguchi Koharu: Ogawa Tamaki + Izukai Kanzen: Naitō Taketoshi + Kagemaru: Tani Kei + Gosuke: Kanbei Hiroshi + Okatsu: Natsuki Mari + Hayabusa: Yuki Ryō-ichi + Aka-kage: Monou Akiko Staff + Đạo diễn: Nakano Hiroyuki + Kịch bản: Saitō Hiroshi + Quay phim: Yajima Yūjirō + Ánh sáng: Ishibara Noritaka + Mỹ thuật: Mochizuki Masateru + Thiết kế mỹ thuật: Fujita Hiroshi + Thu âm: Sei Ichirō + Chỉ đạo võ thuật: Takakura Eiji + Studio: làng điện ảnh Nikkō Edo mura Media [video=youtube;5M0xuuPt-Og]http://www.youtube.com/watch?v=5M0xuuPt-Og[/video] [video=youtube;ohbEm2saUr0]http://www.youtube.com/watch?v=ohbEm2saUr0[/video]
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới V. Yagyū ichizoku no inbō Tạm dịch: âm mưu dòng họ Yagyū Thể loại: Jidai-geki Năm sản xuất: 1978 Thời lượng: 130 phút Ngôn ngữ: tiếng Nhật Download Click vào đây Khái yếu Yagyū ichizoku no inbō là một bộ phim lớn của hãng phim lớn Tōei khi hãng quyết định đánh cược hết uy tín của mình vào bộ phim này với tiêu chí phục hưng thể loại Jidai-geki. Nói không ngoa, Yagyū ichizoku no inbō là một bộ phim toàn sao, quy tụ đầy đủ các diễn viên, tài tử có tên có tuổi trên màn bạc đương thời. Với quy mô đầu tư lớn như vậy, Yagyū ichizoku no inbō đã giành được giải thưởng Nihon Academy lần thứ 2 và qua bộ phim này, Yorozuya Kin-no-suke đã nhận được danh hiệu diễn viên chính xuất sắc nhất, còn Chiba Shin-ichi (Sony Chiba) giành được giải thưởng cho diễn viên phụ xuất sắc nhất. Đạo diễn Fukasaku Kinji cùng Nogami Tatsuo, Matsuda Hiro nhận được giải thưởng kịch bản xuất sắc nhất. Đương thời, bộ phim làm mưa làm gió trong các rạp chiếu ở Nhật và tiền bán vé thu được vượt mức 30 tỷ En. Tầm ảnh hưởng của nó gần như một hiện tượng trong xã hội Nhật bấy giờ, và trong cùng năm, nhà đài cũng sản xuất loạt phim truyền hình với cùng tên, cùng đề tài. Ngoài ra nó còn kéo theo một loạt tác phẩm phái sinh như tiểu thuyết, truyện tranh. Và đến năm 2008, bộ phim còn được remake với thời lượng 2 tiếng đồng hồ dưới dạng phim truyền hình đặc biệt. Nội dung Một trong những điểm thú vị khi xem Jidai-geki là người xem có những góc nhìn thoáng đạt, rộng mở về một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử nào đó. Cùng là một nhân vật, cùng một sự kiện nhưng các nhà làm phim sẽ thể hiện những góc nhìn khác nhau đối với nhân vật, sự kiện đó một cách hợp lý nhưng vẫn dẫn tới kết cục theo đúng lịch sử. Và trong Yagyū ichizoku no inbō, người xem thấy rõ điều này. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết đột ngột của Tướng quân họ Tokugawa đời thứ 2 là Hidetada. Các gia thần bối rối không biết chọn ai trong số hai con trai của Hidetada lên nối dõi. Bởi theo lẽ thường, con trưởng là Iemitsu sẽ nối nghiệp cha nhưng lại có tật nói lắp, lại thêm dung mạo xấu xí nên bị chính cha mình ghẻ lạnh lúc sinh thời. Con thứ là Tadanaga khôi ngô tuấn tú, anh minh đĩnh ngộ, được Hidetada yêu quý và nhiều lần ngõ ý muốn phế con trưởng, lập con thứ. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng đó, một đám gian tế lẻn vào linh miếu, nơi an táng thi hài Hidetada, lấy trộm bao tử từ xác chết nhưng bị người họ Yagyū tập kích. Qua phân tích, Yagyū Tajima-no-kami biết được rằng vị Tướng quân đời thứ 2 đã bị đầu độc. Và thủ phạm đằng sau vụ sát hại này là... Tuy chỉ giữ một chức giáo đầu dạy kiếm pháp cho họ Tokugawa, nhưng Yagyū Tajima đã nảy tâm ý muốn can thiệp sâu vào chính sự, phò tá Iemitsu lên làm Tướng quân đời thứ 3. Và từ đó Tajima dùng mọi thủ đoạn, mưu mô quỷ quyệt nhất, cùng với sự sắt đá nhất của lòng người để tiêu diệt hết mọi đối thủ trên con đường của mình... "Khẩu truyền họ Yagyū viết, hễ giao đấu ắt phải thắng. Đây là đệ nhất nghĩa của binh pháp. Hãy chặt đứt mọi tình cảm con người, ra đường gặp cha thì giết cha, gặp Phật thì chém Phật. Có như vậy thì sau mới đạt được cực ý. Hễ làm được như vậy thì kẻ nào cản đường ta, dẫu có là hóa thân của ác quỷ La sát đi nữa, ta cũng quyết không thua". Staff + Đạo diễn: Fukasaku Kinji + Kịch bản: Nogami Tatsuo, Matsuda Hiro, Fukasaku Kinji + Quay phim: Nakamura Tōru + Ánh sáng: Kitaguchi Kōsaburō + Thu âm: Mitsuguchi Masayoshi + Biên tập: Ichida Isamu + Mỹ thuật: Ikawa Norimichi + Âm nhạc: Tsushima Toshiaki + Phó đạo diễn: Dobashi Tōru + Thiết bị: Inada Gembei + Bối cảnh: Matsudaira Kei-ichirō + Trang sức: Shibata Noritomi + Trang phục: Mori Mamorii + Kết tóc: Tōwa Bishō + Nhạc truyền thống: Nakamoto Toshio + Hợp tác: SONY CHIBA Enterprise Cast + Yorozuya Kin-no-suke vai Yagyū Tajima-no-kami + Chiba Shin-ichi (Sony Chiba) vai Yagyū Jūbei + Matsukata Hiroki vai Tokugawa Iemitsu + Saigō Teruhiko vai Tokugawa Tadanaga + Ōhara Reiko vai cô nương Okuni xứ Izumo + Harada Yoshio vai Nagoya Sanzaburō + Shihomi Etsuko vai Yagyū Akane + Kudō Kentarō vai Yagyū Mata Jūrō + Yabuki Jirō vai Yagyū Samon + Sanada Hiroyuki vai Hayate + Asano Mayu vai Man + Murota Hideo vai Negoro Sagenta + Nakatani Ichirō vai Amano Gyōbu + Tamba Tetsurō vai Ogasawara Genshinsai + Takahashi Etsushi vai Matsudaira Izu-no-kami + Natsuyagi Isao vai Bekki Shōzaemon + Narita Mikio vai thiếu tướng Karasu-maru + Nakahara Sanae vai Kasuga no tsubobe + Kaneko Nobuo vai Quan bạch Kujō + Ashida Shinsuke vai Doi Toshikatsu + Yamada Isuzu vai Sūgen-in + Mifune Toshirō vai Owari Dainagōn [video=youtube;wPjBd1yX2QU]http://www.youtube.com/watch?v=wPjBd1yX2QU[/video] [video=youtube;vXgP8IBZC7g]http://www.youtube.com/watch?v=vXgP8IBZC7g[/video] [video=youtube;8V-wEdKRPfI]http://www.youtube.com/watch?v=8V-wEdKRPfI[/video]
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới Loạt phim Kozure ōkami Tạm dịch: sói mang con, sói dẫn con Thể loại: Jidai-geki, Live action Số tập: 6 Năm sản xuất: 1972~1974 Hãng sản xuất: Tōhō, Katsu Production Khái quát về Kozure ōkami Kozure Ōkami là một tác phẩm Jidaigeki Manga (truyện tranh) Nhật Bản của tác giả Koike Kazuo và họa sĩ Kojima Gōseki. Tác phẩm được đăng tải liên tục trên tạp chí Manga Action từ tháng 9 năm 1970 cho đến tháng 4 năm 1976. Tác phẩm Manga này sau đó trở nên nổi tiếng trong văn hóa đại chúng tại Nhật Bản rồi lan truyền ra hải ngoại. Nhiều bộ phim điện ảnh, truyền hình đã được dựng dựa trên nguyên tác Manga này và nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt tại nhiều nước trên Thế giới, dù một số bộ phim về nó bị cấm chiếu ở một số nước trong thời gian dài vì những cảnh bạo lực. Kozure Ōkami đã trở thành một thứ văn hóa phổ thông tại Nhật Bản và có tầm ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của đất nước này. Sự phổ biến của Kozure Ōkami dẫn đến sự ra đời của bộ 6 tập phim chiếu rạp do nam tài tử Wakayama Tomisaburō thủ vai chính và gây sóng gió một thời không chỉ ở các rạp chiếu trong nước mà còn ở hải ngoại. Kozure Ōkami còn là nguồn cảm hứng cho hai bộ phim Mỹ đình đám những năm gần đây là Road to Perdition và Kill Bill. Bản thân đạo diễn phim Kill Bill, Quentin Tarantino cũng là một fan cuồn nhiệt của Kozure Ōkami. Ngoài ra, tính đến nay đã có 3 series phim truyền hình Kozure Ōkami do 3 tài tử khác nhau diễn xuất trong những niên đại khác nhau. Khái quát về 6 tập phim Kozure ōkami (bản Wakayama Tomisaburō) Loạt phim điện ảnh Nhật Bản này do nam tài tử Wakayama Tomisaburō thủ diễn, gồm 6 phần kéo dài từ năm 1972 đến năm 1974. Loạt phim này được xếp vào thể loại Jidai-geki và được dựng từ nguyên tác Manga cùng tên của Koike Kazuo và họa sĩ Kojima Gōseki. Nhà sản xuất của phim là tài tử Katsu Shintarō, em trai ruột của Tomisaburō (giữa chừng, Katsu không tham gia series nữa và Tomisaburō thay chân, tham gia với vai trò nhà sản xuất). Loạt phim này chiếm được cảm tình của khán giả trong nước Nhật nhờ những cảnh hành động ấn tượng của Wakayama Tomisaburō, nhưng đến năm 1973 thì nảy sinh mâu thuẫn về bản quyền khi phiên bản Kozure Ōkami do tài tử Yorozuya Kinnosuke thủ diễn được phát sóng trên truyền hình, giữa phía Katsu và cục truyền hình mang ý kiến đối lập nhau nên loạt phim điện ảnh này đã kết thúc bỏ ngõ ở phần 6. Sáu bộ phim trong series này bám theo sát nội dung trong Manga, nhưng do lúc khởi quay thì nguyên tác Manga vẫn chưa kết thúc nên không có cảnh nhân vật chính Ogami Ittō quyết đấu với cả họ Yagyū. Bản thân vai diễn Ogami Ittō, cao thủ phái kiếm Suiō-ryū được tài tử Wakayama Tomisaburō thể hiện rất thành công và được đánh giá cao, bởi chính bản thân tài tử này cũng là người có đẳng cấp trong kiếm đạo. Hai tập phim trong loạt phim này là "Ko wo kashi Ude wo kashitatematsuru" ("cho thuê con, nhận giết mướn") và "Sanzu no kawa no Ubaguruma" ("xe nôi xuống sông Tam Đồ) được đạo diễn người Mỹ Roger William Corman dựng lại, gom thành một tập với cái tên "Shogun Assassin". Bộ phim này đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ phía khán giả Mỹ. Tuy nhiên, vì góc quay bám sát với nguyên tác, miêu tả trần trụi những cảnh máu phun có vòi, đầu người lăn long lóc, những cảnh lõa thể nên bộ phim đã bị cấm chiếu ở nhiều quốc gia trong một thời gian dài. Khái quát về nội dung Mỗi tập phim bao gồm nội dung của một số chương truyện trong nguyên tác. Bối cảnh của Kozure Ōkami là một xã hội tưởng tượng, mô phỏng xã hội Nhật Bản thời Edo khi chính quyền Tokugawa cai trị đất nước. Để dễ dàng kiểm soát các chư hầu Daimyō, chính quyền Tokugawa đã đặt ra ba tổ chức phù trợ mình. Đầu tiên là nhóm Ninja mật thám do họ Kurokuwa cầm đầu chuyên dò la chứng cứ sai phạm của các chúa Daimyō để đẩy họ vào cảnh bị tịch thu lãnh địa. Thứ hai là nhóm thích khách do họ Yagyū chỉ đạo, làm nhiệm vụ ám sát các nhân vật quan trọng gây cản trở chính sách của Tokugawa và cuối cùng là chức đao phủ của Shōgun chuyên chặt đầu các lãnh chúa phạm tội phải mổ bụng. Trong số này thì chỉ có chức đao phủ là được ban cho đặc ân mặc chiếc áo có gia huy của Shōgun, tượng trưng cho quyền lực của Mạc Phủ. Kozure Ōkami là câu chuyện về nhân vật đao phủ Ogami Ittō đi lang bạc giang hồ cùng đứa con trai ba tuổi của mình nhằm hành thích Yagyū Retsudō để báo thù cho người vợ là Azami đã bị Retsudō sát hại. Kozure Ōkami nêu bật tinh thần tinh tấn dũng mãnh của người võ sĩ Samurai trong khoảnh khắc giữa sống với chết, nêu bật tính quyết liệt, kiên định của người võ sĩ giữa lằn ranh sinh tử. Đồng thời cũng đề cao tình cảm phụ tử giữa Ogami Ittō và con trai Daigorō. Tình cha con trong Kozure Ōkami được đánh giá là một trong những tình cảm thiêng liêng và cảm động nhất trong phim ảnh. "Chỉ có cha mới hiểu được con và chỉ có con mới thấu lòng cha". Những chuyện bên lề bộ phim Nam tài tử Wakayama Tomisaburō là người rất thích nguyên tác Kozure Ōkami, một hôm bỗng đến tìm tác giả Koike Kazuo xin ông cho phép mình đóng vai Ittō trong phim. Nhìn tướng mạo Wakayama, tác giả Koike lưỡng lự vì thể hình của Wakayama to béo hơn nhân vật Ittō trong Manga. Biết được điều đó, Wakayama chộp lấy thanh kiếm thật trước mặt, xuất chiêu chém chuồn chuồn, rút kiếm, thu kiếm trong nháy mắt. Chứng kiến tài nghệ tuyệt luân này, Koike cảm phục và đồng ý cho Wakayama thủ vai chính trong bộ phim. Họa sĩ của nguyên tác Manga là Kojima Gōseki vốn cũng rất thích những cảnh đánh nhau của tài tử Wakayama nên khi nghe Koike nói sẽ giao vai Ittō cho tài tử này thì ông đồng ý ngay. Khi phiên bản phim truyền hình do tài tử Yorozuya Kinnosuke thủ diễn được dàn dựng thì Wakayama rất đỗi tức giận, thét rằng "Kinnosuke và ta, ai xứng với vai Ittō hơn, cứ đọ kiếm thì biết!" khiến em trai là Katsu Shintarō phải ra sức can ngăn. Nhiều cảnh diễn trong loạt phim này để lại ấn tượng sâu đậm cho người xem nên được tái hiện trong phiên bản phim truyền hình do Yorozuya Kinnosuke thủ diễn. Wakayama Tomisaburō hết sức bực mình vì cảnh diễn của mình lại bị người khác diễn lại nên đã kiến nghị với giám đốc của Katsu Production là Katsu Shintarō, đồng thời cũng là em trai của mình. Nhưng rốt cuộc Katsu đã bán bản quyền những cảnh diễn này cho cục truyền hình. Vì lý do này mà hai anh em Wakayama Tomisaburō và Katsu Shintarō bất hòa một thời gian. Nguyên tác giả Koike Kazuo từng nói rằng, chính nhờ có nét vẽ của họa sĩ Kojima Gōseki mà thế giới của Kozure Ōkami được hình thành, và chính nhờ có tài diễn xuất của Wakayama Tomisaburō mà Kozure Ōkami được cả Thế giới biết đến. Nếu thiếu một trong hai người thì Kozure Ōkami sẽ không nhận được sự hoan nghênh như ngày nay. Có thể xem online 6 tập phim tại đây Tập 1 Tập 2 Tập 3 Tập 4 Tập 5 Tập 6
Re: Kho phim đậm Nhật cũ, mới VI. Ko wo kashi ude wo kashi tsukamatsuru Tạm dịch: cho thuê con, nhận giết mướn Thời lượng: 85 phút Ngôn ngữ: tiếng Nhật Công chiếu: 15-01-1972 Download Fshare: Link tải phim Fshare - Dich vu chia se, luu tru du lieu mien phi tot nhat Safeshared (tải nhanh không chờ): Link tải phim [Vietsub]Kozure.okami1.ko.wo.kashi.ude.wo.kashi.tsukamatsuru.1972.mkv - SafeShared Torrent: Link tải phim Download file [Vietsub]Kozure.okami1.ko.wo.kashi.ude.wo.kashi.tsukamatsuru.1972.mkv.torrent - UpFile.vn Khái quát Đây là tập phim nằm trong loạt Kozure Ōkami do nam tài tử Wakayama Tomisaburō thủ vai chính. Đây là tập đầu tiên trong loạt phim này, được công chiếu vào năm 1972 và đạo diễn là Misumi Kenji. Tập phim này là tác phẩm điện ảnh hóa đầu tiên của bộ Manga cùng tên của Koike Kazuo và Kojima Gōseki. Tác phẩm này nhận được nhiều sự tán thưởng từ công chúng, vì vậy nó đã mở màn cho loạt phim Kozure Ōkami kéo dài đến năm 1974. Cùng thời điểm với tập phim này là bộ phim về kiếm sĩ mù Zatōichi, Zatōichi Goyō no tabi do em trai của Wakayama Tomisaburō là Katsu Shintarō thủ diễn. Nội dung Đây là tập đầu tiên trong loạt phim Kozure Ōkami và giải thích thân thế của nhân vật chính, đao phủ Ogami Ittō cũng như động cơ lang thang của Ittō. Mở đầu phim là cảnh kiếm khách giang hồ Ogami Ittō đẩy chiếc xe nôi, cùng con trai là Daigorō lang bạc khắp nước Nhật. Trên xe nôi có giăng biển "cho thuê con, nhận giết mướn". Ogami Ittō vốn là cao thủ phái kiếm Suiō-ryū, được chọn làm đao phủ của Tướng quân, chuyên chém đầu các lãnh chúa Daimyō sau khi họ mổ bụng vì mắc trọng tội. Nhưng rồi cả họ tộc Ogami bị Yagyū Retsuō, một nhân vật đầy dã tâm trong bộ máy Mạc Phủ sát hại. Mục đích của Retsudō là chiếm vị trí đao phủ của Ittō, mặc chiếc áo có gia huy của Tướng quân, thứ tượng trưng cho quyền lực tối cao. Từ đó Ogami Ittō và đứa con trai sơ sinh còn sống sót sau vụ ám sát phải rời khỏi thành Edo, lang thang khắp nước Nhật để tìm cơ hội báo thù... Trong tập phim này, cha con Ogami được thiên hạ gọi là "sói mang con" và nhận giết mướn với 500 lượng cho mỗi mạng người. Một lần nọ, gia thần của phiên Odayama đến nhờ Ittō hạ sát một gian thần có thế lực trong phiên... Staff + Chế tác: Katsu Shintarō, Matsubara Hisaharu + Nguyên tác: Koike Kazuo, Kojima Gōseki + Kịch bản: Koike Kazuo + Đạo diễn: Misumi Kenji + Biên tập: Taniguchi Toshio + Quay phim: Makiura Chishi + Âm nhạc: Sakurai Hide Akira + Mỹ thuật: Naitō Akira + Thu âm: Hayashi Tsuchi Tarō Cast + Ogami Ittō: Wakayama Tomisaburō + Ogami Daigorō: Tomikawa Akihiro + Osen: Mayama Tomoko + Yagyū Kurando: Tsuyuguchi Shigeru + Yagyū Bizen-no-kami: Watanabe Fumio + Yagyū Retsudō: Itō Yūnosuke + Sugito Kemmotsu: Uchida Asao + Mon-no-suke: Matsuyama Teruo + Ichige Gyōbu: Naitō Taketoshi + Kambei: Sekiyama Kōji