Mariah Carey - Tổng hợp videography 1990-2010 part 3 of 3end

Thảo luận trong 'mHD, SD Video Clips' bắt đầu bởi quangtxa, 24/7/10.

  1. quangtxa

    quangtxa New Member

    Tham gia ngày:
    24/3/10
    Bài viết:
    14
    Đã được cảm ơn:
    6
    [​IMG]
    (Tiếp theo part 2 - Xem part 2 tại đây

    Sự nghiệp diễn xuất

    Mariah Carey bắt đầu học diễn xuất chuyên nghiệp vào năm 1997, và vào năm sau, cô đã tham gia thử vai trong nhiều phim. Cô chính thức diễn xuất lần đầu tiên với vai ca sĩ opera trong phim hài lãng mạn The Bachelor (1999) với 2 diễn viên chính là Chris O'Donnell và Renée Zellweger. Kênh CNN đã nhận xét vai diễn diva bất tài của Carey trong phim này là "hoàn hảo".

    Carey đóng vai chính lần đầu tiên trong phim Glitter (2001), và trong phim này, cô đóng vai một ca sĩ bước vào ngành công nghiệp âm nhạc sau khi gặp một DJ (do Max Beesley thủ vai) vào những năm 90 của thế kỷ trước. Trong khi nhà phê bình Roger Ebert nhận xét "Carey có thể diễn từ những vai lăng nhăng chỉ mang tính trách nhiệm đến sự chân thật đầy nhiệt huyết", thì các lời phê bình còn lại đều chỉ trích gay gắt: Leslie Halliwell của trang Film Guide gọi phim này là "phương tiện truyền bá nhạt nhẽo cho một ca sĩ nhạc pop không biết diễn xuất", và tờ The Village Voice nhận xét thêm: "Bất cứ cảm xúc nào Carey thể hiện đều như thể lúc cô ta bị đánh mất chìa khóa xe". Glitter thất bại về doanh thu, và Carey đã nhận một giải Mâm xôi vàng ở hạng mục Nữ diễn viên dở nhất. Sau này cô phát biểu rằng "phim bắt đầu theo một nội dung có giá trị nhưng kết thúc lại giống như phim trẻ em. Nó đã đánh mất rất nhiều điều hay... Điều đó đã luôn khiến tôi phải suy nghĩ".

    Sau phim đó, Mariah Carey, Mira Sorvino và Melora Walters cùng đóng vai những nữ hầu bàn trong nhà hàng của những tên cướp trong phim độc lập WiseGirls (2002), đã được khởi chiếu tại liên hoan phim Sundance và được chiếu trên các đài truyền hình cáp ở Mỹ. Các lời phê bình khen ngợi sự nỗ lực của Carey: tờ Hollywood Reporter đã dự đoán, "Những lời phê bình gay gắt cho phim Glitter sẽ đi vào quên lãng một khi Carey làm nóng khán giả với vai diễn Raychel", và nhà phê bình Roger Friedman, coi cô như là "một Thelma Ritter của thiên niên kỷ mới", và nhận xét: "Tuyến nhân vật của Carey sắc sảo và hài hước". Nhà sản xuất phim WiseGirls là Anthony Esposito đã mời Carey diễn trong phim The Sweet Science, phim về một nữ võ sĩ quyền anh vô danh được phát hiện bởi một người quản lý, nhưng phim vẫn chưa tiến hành thực hiện.

    Carey cũng là một trong số nhiều nghệ sĩ âm nhạc xuất hiện trong các phim độc lập của Damon Dash gồm có Death of a Dynasty (2003) và State Property 2 (2005), trong khi vai trò diễn viên truyền hình vẫn còn bị giới hạn trong tập phim Ally McBeal được chiếu vào tháng 1 năm 2002. Carey đã tham gia vai diễn trong phim độc lập Tennessee vào năm 2006, đóng vai nữ hầu bàn cùng với hai anh trai lên đường đi tìm người bố nhiều năm bị mất tích. Cô tiết lộ: "Tôi vào vai Krystal, nhân vật hoàn toàn khác tôi. Tôi nghĩ mọi người sẽ ngạc nhiên lắm đấy. Cô ấy mộc mạc và không hề quyến rũ". Năm 2009, Carey thủ vai một nhà hoạt động xã hội trong bộ phim Precious được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết năm 1996 Push của Sapphire]. Bộ phim này nhận được nhiều lời khen từ giới phê bình và diễn xuất của Carey cũng nhận được phản hồi tốt.


    Phong cách nghệ thuật
    Giọng hát


    Carey được biết đến như một ca sĩ hát thành công ở cả giọng nữ trầm và nữ cao. Điểm nổi bật trong âm vực của cô chính là khả năng hát ở những quãng âm gió. Minnie Riperton luôn được Carey nhắc đến như người có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với kỹ thuật xướng âm của cô. Từ khi còn rất nhỏ, Carey đã luôn nỗ lực để có thể sánh ngang với khả năng hát những nốt cao tuyệt vời của Riperton và ngày càng mở rộng phạm vi âm vực của mình. Theo một số nguồn tin, Carey có âm vực trải dài trên 5 quãng tám, trong khi một số nguồn tin khác lại cho rằng âm vực của cô rộng tới 7 hoặc 8 quãng tám. Năm 2003, Carey được MTV và tạp chí Blender bình chọn ở vị trí số 1 trong danh sách 22 giọng ca hay nhất mọi thời đại. Nói về kết quả của cuộc bình chọn này, Carey cho biết: "Điều thực sự có ý nghĩa là tôi đã được góp mặt cùng MTV. Tất nhiên, danh hiệu này là một lời khen ngợi tuyệt vời dành cho tôi, nhưng tôi thực sự không cảm thấy như vậy về bản thân mình".

    Giọng hát của Mariah Carey được giới phê bình dành cho sự quan tâm khá kỹ lưỡng. Họ nhận thấy rằng cô truyền đạt thông điệp trong các ca khúc của mình không thực sự hoàn hảo. Năm 1992, tạp chí Rolling Stone nhận xét rằng: "Mariah Carey có một giọng hát trời cho nhưng tiếc thay, bây giờ cô hát to nhiều hơn là diễn cảm và gây xúc động cho người nghe... ở một vài nốt nhạc cô có khả năng "hát to" tới mức có thể át cả lời ca khúc". Tờ nhật báo New York Daily News viết rằng Carey "chỉ giỏi xướng âm và thể hiện kỹ thuật thanh nhạc khá xuất sắc chứ không giỏi thể hiện cảm xúc của mình. Liệu có một giọng hát hay và khỏe có giúp bạn trở thành một ca sĩ xuất sắc không? Khó đấy!" Một số tạp chí khác đã giải thích quyết định của Carey sử dụng cái mà cô gọi là âm "hơi" trong một số nhạc phẩm của mình trong giai đoạn cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 là một dấu hiệu cho thấy giọng hát của cô đã bắt đầu xuống dốc, nhưng cô vẫn xác nhận rằng giọng hát của cô "xưa nay vẫn thế"[85]. Một bài báo trên tạp chí Vibe cho thấy rằng phong cách hát của Carey đã làm nổi bật những điểm yếu trong các khía cạnh khác của âm nhạc Carey: "Sự ấn tượng về giọng hát của cô – cũng như xu hướng hát quá to của cô – đã khiến cho sự dịu dàng chất giọng cô có vẻ ngày càng bị phai mờ, khác hẳn với những nhạc phẩm đầu tay".

    Chủ đề các ca khúc và thể loại nhạc

    Tình yêu là đề tài chính trong các ca khúc lãng mạn của Mariah Carey mặc dù cô cũng có những bản sáng tác về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, cái chết và sự duy linh. Cô cho biết hầu hết các tác phẩm của cô một phần là tự sự nhưng thời báo TIME lại viết: "Giá mà âm nhạc của Mariah Carey có tính kịch như trong cuộc sống của cô thì hay biết mấy. Đằng này những bài hát của cô thường có vị ngọt và hơi nhân tạo còn cuộc sống riêng tư của cô thì lại đầy đam mê và những xung đột".

    Các nhạc phẩm của Mariah Carey có sử dụng nhiều âm thanh của các nhạc cụ điện tử như trống điện tử, keyboard và máy hòa âm. Thậm chí nhiều bài còn có cả tiếng đàn piano bởi vì cô đã được học piano ngay từ hồi mới 6 tuổi. Carey nói rằng tuy cô không biết đọc tờ nhạc bướm (bản nhạc in từng tờ rời chứ không đóng thành quyển) và thích được cộng tác với các nghệ sĩ piano khi sáng tác nhạc nhưng lại nhận thấy rằng việc sáng tác các giai điệu nhanh và ít "cổ truyền" hơn cùng các chuỗi hợp âm có vẻ dễ dàng hơn. Có thể nhận thấy một số bản nhạc cải biên của Carey chịu tác động từ các nhạc phẩm của một số nghệ sĩ piano nổi tiếng như Stevie Wonder, người mà cô đã từng gọi là "thiên tài của thế kỷ 20" nhưng cô đã từng nói rằng: "Giọng hát chính là nhạc cụ của tôi, nó vẫn luôn thế".

    Ảnh hưởng

    Carey đã nói rằng cảm hứng âm nhạc của cô đến từ những nghệ sĩ Soul/R&B như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Gladys Knight, Aretha Franklin và Al Green, từ lúc còn bé. Âm nhạc của cô còn ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc gospel, và các ca sĩ gospel yêu thích của cô bao gồm The Clark Sisters, Shirley Caesar và Edwin Hawkins. Khi Carey bắt đầu đưa hip-hop vào phong cách của mình, có suy đoán cho rằng cô tận dụng sự phổ biến của thể loại này, nhưng cô đã kể với tờ báo Newsweek, "Người ta hoàn toàn không hiểu rằng tôi đã lớn lên với loại nhạc này".[89] Cô đã bày tỏ sự tôn kính đến những rapper như The Sugarhill Gang, Eric B. & Rakim, Wu-Tang Clan, Notorious B.I.G. và Mobb Deep, và với những người đã cộng tác cùng cô trong ca khúc "The Roof (Back in Time)".

    Đĩa đầu tay của Carey bị phê bình là phong cách quá giống với Whitney Houston, và trong suốt sự nghiệp của cô, phong cách âm nhạc và giọng hát của Carey cùng với cấp độ thành công đã được so sánh với Whitney Houston và Celine Dion. Carey và các ca sĩ đồng nghiệp của cô được nhà báo Garry Mulholland coi là "những công chúa gào thét... những giọng ca điêu luyện phối hợp nhạc pop đại chúng với những bản tình ca ủy mị đa thể loại". Trong cuốn sách She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002), tác giả Lucy O'Brien đã so sánh tự trở lại của Barbra Streisand với Carey và Dion, và miêu tả họ với Whitney Houston là "được tô vẽ và phóng đại đến sự hoàn hảo". Một Carey thuần túy âm nhạc và một Carey gợi cảm từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước góp phần làm xa rời hình ảnh cũ, và rồi Carey nhận xét rằng âm nhạc thời kì đầu của cô là "đa thể loại và ủy mị quá đáng". Không như Whitney Houston và Celine Dion, Carey tự viết hầu hết các bài hát cho mình, và cuốn sách Guinness Rockopedia (1998) đã xếp hạng cô như là một trong những ca sĩ-nhạc sĩ quan trọng nhất.

    (Trích Wikipedia)

    Hôm này mình giới thiệu với các bạn phần cuối của loạt bài Mariah Carey Tổng hợp Videography 1990-2010. Chúc các bạn vui vẻ!
    [​IMG]
    6part X 200MB + 1Part X 170MB with 5% Recover Record​

    Mã:
    http://up.4share.vn/f/77464346444344/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part1.rar.file
    http://up.4share.vn/f/57666366646363/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part2.rar.file
    http://up.4share.vn/f/53626762606766/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part3.rar.file
    http://up.4share.vn/f/50616461636466/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part4.rar.file
    http://up.4share.vn/f/51606560626566/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part5.rar.file
    http://up.4share.vn/f/7445404547404c/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part6.rar.file
    http://up.4share.vn/f/3504010406010c/Mariah_Carey_full_videography_1990-2010_%20par3_of3.part7.rar.file
     

Chia sẻ trang này