Bệnh tôm chết sớm: chúng mình cũng tranh cãi về những chiến lược đã đề nghị về việc triệt trùng hoàn toàn đáy ao và nước ao trước khi thả giống để chủng loại bỏ những đường truyền khả thi (possible vectors) đối với bệnh gan tụy có thể làm cho dịch bệnh nghiêm trọng hơn thay bởi tìm biện pháp kiểm soát nó và theo bọn tôi chiến lược quản lý vi trùng có thể định nghĩa là chìa khóa tránh dịch bệnh EMS/AHPNS. chúng mình đề nghị thả giống trong hệ thống giàu sinh học (ví dụ hệ thống nước xanh và giàu vi sinh) là vì môi trường này cốt yếu chứa các vi trùng ít tác động xấu tăng trưởng chậm đảm bảo vô hại giúp việc tránh dịch căn bệnh EMS/AHPNS. Sự hủy hoại hệ sinh thái do việc diệt trùng ao nuôi để chủng loại phá nguồn bệnh hay nguyên nhân trung gian có thể sẽ tác động xấu môi trường hơn. Sự cải thiện dinh dưỡng sẵn có sau khi diệt trùng ao và cộng đồng sinh thái mất đi ổn định và kém đa dạng hơn (kéo theo sự kém cạnh tranh) sẽ kích thích giúp các loài vi khuẩn tăng trưởng nhanh (các vi trùng gây bệnh) tái thiết lập trong môi trường. cần có rằng dịch bệnh EMS/AHPNS là bởi vi khuẩn Vibrio cho nên vì vậy giải pháp làm theo này (khử trùng đáy ao và nước) càng biến ra mầm bệnh trong ao nuôi thay vì giảm thiểu nó. Bài học về bệnh Vibrio phát sáng trong thập niên 1990’s gây bởi vi trùng Vibrio harveyi cũng là loài vi sinh gần gủi với Vibrio paraheamolyticus – bệnh phát sáng cũng gây chết tôm trong khoảng ngày 10 đến 45 sau khi thả giống trong ao nuôi. Sự bùng nổ dịch căn bệnh cũng gia tăng theo sự gia tăng của vi sinh trùng Vibrio cơ hội trong nước ao và cải thiện theo sau sự vô trùng ao Ngoài sự biến mất cân đối cộng đồng vi sinh và sự sẵn có dinh dưỡng trong ao. Xem thêm: cải tạo ao nuôi tôm thẻ chân trắng Trong năm qua, không ít giải pháp đối với bệnh EMS/AHPNS đa phần dựa trên quan sát thực tiển. Có 1 trong trường hợp rằng ao nuôi với sự có mặt của copepods thì EMS/AHPNS ít diễn ra hơn bởi vì sự có mặt của copepods định nghĩa là chỉ số cho thấy môi trường giàu sinh học và hệ sinh thái ổn định là vì copepods đòi hỏi có tảo và vi sinh trùng tuân thủ thức ăn giúp nó. Một ví dụ không giống là công nghệ nước xanh cũng cho thấy ít EMS/AHPNS hơn – đây là hệ sinh thái của vi tảo và cộng đồng vi sinh đầy đủ và đưa đến giảm mật độ Vibrio và giảm tỉ lệ chết của vật nuôi. không ít cơ chế mối quan hệ đến hiệu quả của nước xanh bao gồm việc tảo xanh sinh ra những chất kháng sinh và các chất ức chế gen gây độc của vi sinh trùng theo cơ chế Quorum sensing của vi sinh trùng (Hệ thống giao tiếp vi khuẩn qua phân tử tín hiệu). tuy nhiên bọn tôi giúp rằng cũng không nên bỏ hệ vi sinh kết hợp với tảo xanh bởi vì chúng có thể cạnh tranh dinh dưỡng với những vi sinh gây căn bệnh và chúng sản xuất ra những chất tác động tới sự hiện diện và hoạt lực của vi trùng gây bệnh. Tương tự công nghệ nước xanh, hệ thống nước giàu vi sinh được tiến triển để hạn chế sự có mặt của vi sinh trùng gây bệnh là những vi trùng tăng trưởng nhanh – Hệ thống nước giàu vi khuẩn là tiếp cận lệ thuộc lý thuyết sinh thái theo chiến lược chọn lọc K/r. Nước giàu vi khuẩn được đặc trưng bởi sự phong phú nhóm vi khuẩn tăng trưởng trễ và dinh dưỡng giới hạn cung cấp giúp mỗi vi trùng – được gọi định nghĩa là Nhóm chiến lược K. Chúng sẽ loại bỏ môi trường của vi sinh tăng trưởng nhanh – Nhóm chiến lược r, chứa những vi sinh khuẩn gây căn bệnh Vibrio spp. Áp lực chọn lọc chiến lược K trong trại giống có thể là cơ chế đã hạn chế vi sinh trùng gây căn bệnh gan tụy EMS/AHPNS trong trại giống. Chiến lược K trong ao nuôi có thể đạt được như giải pháp tránh sự biến động thất luôn nguồn dinh dưỡng trong ao nuôi để đảm bảo lượng dinh dưỡng cung cấp cho mỗi vi khuẩn ổn định và tại mức thấp nhất và thực hành phong phú hệ vi sinh khuẩn không gây căn bệnh hoặc tảo trong ao nuôi đạt năng suất sinh học của nước ao. nếu sát trùng ao nuôi thì hệ vi sinh trùng phải được tạo thành trước khi thả giống nhằm đảm bảo phòng ngừa nhóm chiến lược r biến chuyển trong ao nuôi. Xem thêm: bệnh đen mang ở tôm thẻ chân trắng nên lưu ý rằng chiến lược hệ thống nước giàu vi trùng cũng chỉ đề phòng bệnh căn bệnh gan tụy ở tôm chứ không hiệu quả với nguồn tôm nhiễm bệnh gan tụy. Chúng ta cũng cần thiết nguồn tôm giống sạch bệnh gan tụy. Tóm lại, dịch bệnh gan tụy Hiện tại đòi hỏi phải đánh giá lại những làm theo và biện pháp của nghề nuôi tôm thâm canh Hiện giờ. bọn tôi cho rằng tuân thủ quản lý hệ vi sinh trùng – những điều đang bị phá quên (bao gồm việc nuôi tôm trong nguồn nước giàu vi sinh khuẩn và chiến lược kiểm soát sinh học) là những nguyên tố chìa khóa để giải quyết những khó khăn.Vấn